Bài viết này đã được đăng trên Tạp Chí
Thế Kỷ 21
vào tháng Mười, tháng Mười Một năm 1994
và tháng Giêng, tháng Ba năm 1995.
Dáng dấp con sáo
Sinh
mệnh của dòng dân nhạc Việt Nam, ở một số khía cạnh, đã giống như thân phận của
loài sáo là loài chim mà ca dao Việt Nam đã có câu ví von “hót như sáo.”
Sáo
không những đã hay hót mà lại hót hay nữa. Ở Việt Nam người ta có thể nghe được
tiếng hót của loài chim này ở bờ tre, khóm chuối, bụi dứa, cành đa, vườn ổi…
lúc sáng, ban trưa, buổi chiều, để nhận biết rằng nơi ấy, chỗ này đang bình
yên, êm ả, vì sáo không thể hót ở những vùng bất an, đầy náo động được. Tiếng
sáo hót lên là dấu chỉ của thanh bình, yên tĩnh.
Dân
nhạc là hồn tính của cả một dân tộc trên suốt chiều dài của dòng lịch sử nhân
loại. Ca dao, một thể loại quan trọng bậc nhất của dân nhạc Việt Nam, cũng có
nhiều câu nói lên tính hay ca hát của người dân:
“Hát cho
chó cắn, bò lồng,
Hát cho con gái bỏ chồng mà theo.
Hát cho chó cắn, mèo kêu,
Hát cho ông lão trong lều bò ra.”
Hay
là:
“Đố ai ngồi võng không đưa,
Ru con không hát anh chừa rượu tăm.
Đố ai chừa được rượu tăm,
Chừa ăn thuốc chín, chừa nằm chung hơi.
Có tôi chừa được mà thôi
Chừa ăn thuốc chín, chung hơi chẳng chừa.”
Tuy
nhiên các đặc tính của cả người và chim cùng sống ở một xứ nông nghiệp hiền hòa
ấy đã không thể tránh được cái thuyết “tài mệnh tương đố” mà thi hào Nguyễn
Du đã chọn làm chủ đề triết lý cho cả cuốn
văn vần Đoạn Trường Tân Thanh tức là truyện Kiều với những câu mở đầu:
“Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.”
Có
thể Trời ghen với cả người và chim nên dân Nam đã phải trải qua biết bao nhiêu
cuộc bể dâu trong kiếp sống. Những con sáo hay hót cũng dễ rơi vào cảnh bất hạnh
vì loài người thích bẫy để bắt nó đem nhốt vào lồng. Quái ác hơn, người còn bầy
ra cái trò chơi dạy cho sáo tập hót tiếng người.
Người
đè sáo ra, cạy mỏ, bóp cho lè lưỡi rồi cạo lột, nhét ớt bắt sáo ăn rồi sau đó dạy
cho sáo học “ngoại ngữ” với mấy câu xã giao như “lậy ông, lậy bà, lậy cô, lậy cậu…”
Người
nước Nam cũng vậy, trải qua rất nhiều thời kỳ đã rơi vào cảnh đô hộ, do đó rất
ít khi nói được, hát được, chính tiếng lòng của mình.
Người
dân luôn bị rơi vào cái cảnh gian truân, sống sót được đã là may mắn lắm rồi,
thì cái hồn tính của dân tộc ấy là dân nhạc có bị mất mát, suy trầm cũng là điều
dễ hiểu.
Chim
và người ở nước Nam có vẻ khắng khít với nhau trong nhiều tình huống. Dân chúng
cả nước ưa ngâm, ưa lẩy Kiều vì thấy câu chuyện bi phẫn này có cái bóng dáng của
chính đời mình trong đó. Truyện kể một người con gái tài sắc mà luôn phải chịu
cảnh đọa đầy, luân lạc.
Trong
khi các con sáo bất hạnh bị nhốt trong lồng chỉ tìm cách sổ lồng mà bay.
Lý
con sáo là một bài ca ngắn, bình dân. Có người giải thích Lý có cái nghĩa là
nói về, nói về chuyện con sáo:
“Ai đưa con sáo sang sông
Để cho con sáo sổ lồng bay
xa."
Câu
chuyện thật đơn giản, không biết ai đặt ra. Dân ca làm gì có tác giả. Dân ca là
sự đóng góp của đại chúng. Không có xuất xứ rõ rệt, chưa ai có thể tìm tòi cho
ra cái gốc tích, ngọn ngành “Rằng Là” ai, ở đâu, gặp hoàn cảnh gì mà đã lý tới
chuyện con sáo.
Căn
cứ vào việc thấy miền Nam hay Lý lắm nên người ta đoán rằng Lý xuất phát ở miền
Nam, miền Nam ở đây lại phải hiểu là phía Nam của nước ta thời Trịnh Nguyễn
phân tranh, từ 1533 đến 1788.
Lý
con sáo giản dị, ngắn gọn nhưng đã được phổ biến trên khắp cả nước Việt Nam,
tùy theo địa phương, đã thêm bớt những chữ đệm vào để cho thích hợp với thổ âm
và lối hát của từng vùng .
Có
thuyết còn nói rằng bài Lý Con Sáo Quảng (Quảng Nam) đã được vua Quang Trung
Nguyễn Huệ chọn làm bài hát quân hành để cho quân sĩ của ngài nức lòng trên đường
di chuyển mau lẹ ra Bắc mà quên bớt mệt nhọc. Dân cả nước Nam từ lâu rồi đã
khát khao Tự Do, Thanh Bình, có thể đây cũng là một nguyên do khiến bài Lý Con
Sáo đã được phổ biến sâu rộng trong dân gian, truyền từ đời này sang đời khác.
Dư
luận bình thường, khi lý về dân nhạc Việt Nam hay nói rằng cái di sản ấy lớn lắm,
nhưng lại mất mát quá nhiều, và tới “giờ đây” chỉ còn lối hơn 100 thể điệu với
cả ngàn bài dân ca lời lẽ khác nhau.
Công
việc tìm tòi dân ca Việt Nam thật giống như cảnh đi tìm kho tàng báu vật với một
con số phỏng định tượng trưng nhưng thực tế thì chỉ thấy còn vài chục thể điệu
cho các bài hát cũ. Chẳng hạn Trống Quân chỉ có một thể điệu dùng để hát cho tất
cả các câu thơ theo lối lục bát.
Thoạt
nghe việc đi tìm kho tàng dân nhạc Việt Nam, ai cũng cho là đáng làm. Nhưng đi
sâu hơn một chút thì quả là một vấn đề vạn nan, rắc rối. Lớp bụi dĩ vãng quá dầy
khó tìm ra được chân và giả.
Nội
mấy câu ru cháu thôi cũng khó mà biết được thế nào là đúng hay sai:
“Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa
về
Bắt được con chuối con trê
Xách cổ lôi về cho cái ngủ
ăn…”
Câu
này đúng hay sai không ai có thể biết được, bởi vì trên sách vở đã có tác giả
viết:
“…Bắt được mười tám con chắm,
con trê…”
Con
số 18 có ưu thế để cho cái ngủ ăn không hết nhưng lại có nhược điểm là cá chắm
không ở đồng sâu mà nuôi trong ao.
Lại
có sách ghi:
“…bắt được con cá trê râu…”
hay
“…bắt được con cá rô, trê…”
Ngay
cả cử động của cái tay đưa cá về nhà cũng có nhiều khác biệt tùy theo tâm tính
của người bắt cá và trình trạng sức khỏe của các con cá bị bắt! Có sách thì viết
“túm cổ đem về”, có sách ghi “nắm cổ lôi về”, “Xách cổ đưa về.”
Câu
nào là chính bản, câu nào là phụ bản, vả lại biết đâu tác giả của câu ru đó đã không
có khuyết điểm. Cho nên cái việc “tam sao thất bản” là điều khó lòng tránh được.
Cụ
Diệu Thư, 83 tuổi, quê ở Hải Dương, hiện cư ngụ tại Westminster, khi nghe chuyện
tìm kiếm dân ca, đã đưa ra lời khuyến khích “việc làm này hay nhưng con đường
thì hiểm hóc, gian nan lắm, không cẩn thận dễ bị rơi vào lệch lạc.”
Hiểm
hóc, gian nan thế nào thì có chuyện cụ thể chứng minh ngay. Cụ Trần Thị Sương
sinh năm 1912 tại Liễu Nha, Mỹ Lộc, Nam Định , bút hiệu Từ Phương, tác giả của
một tập thơ và cũng là người em kết nghĩa của cụ Á Nam Trấn Tuấn Khải ngày trước,
hiện ở Westminster, đã đưa cho chúng tôi một tập vở viết tay với 1161 câu ca
dao, tục ngữ, rồi nói “chưa có hết đâu, tôi ngồi không, buồn nên viết lại…”
Cụ
Từ Phương tiếp “chuyện ca dao đúng là hiểm hóc, khó khăn lắm.” Chẳng hạn như
bài ca dao:
“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm
xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em đi lấy chồng anh tiếc lắm
thay.
Thoạt vào anh nắm cổ tay
Sao trước em trắng mà rày em
đen.
Hay là lấy phải chồng hèn,
Cơm sống canh mặn nó đen mất
người.
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi từ ngày
còn không
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng như cá cắn
câu,
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào
ra…”
Bài
ca dao này, bình thường thì có vẻ là một bài hát thuần túy huê tình, diễn tả sự
đối đáp của một cặp trai gái bị rơi vào cảnh ngang trái, nhưng cụ Từ Phương lại
cho biết ngay từ năm 1949, khi ở Hà Nội, cụ đã được đọc trong một cuốn sách ghi
rằng bài ca dao này có gốc từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Đây là việc Chúa Trịnh
(không rõ Chúa nào) thấy ông Đào Duy Từ vào Nam giúp Chúa Sãi nhà Nguyễn làm được
nhiều việc lớn nên đã tiếc, bèn truyền cho một vị đại quan đặt ra các câu đồng
dao dạy cho trẻ con hát mà dụ ông Đào Duy Từ trở về đất Bắc.
Ông
Đào Duy Từ do đó cũng đáp lễ bằng cách làm lại đồng dao để trả lời Chúa Trịnh. Cuộc đối đáp bằng đồng dao rất thi vị
này đem ghép lại thành một bài ca.
Chuyện
“Trèo lên cây bưởi” còn tiếp nối khi phe Bắc đưa ra câu đồng dao đánh vào nỗi
nhớ nhà của những kẻ tha hương với câu:
“Có ai về tới đường Trong,
Nhắn nhe bố Đỏ (họ
Đào nên gọi là đỏ) liệu trông đường về,
Ham danh lợi bỏ quê quán tổ,
Đất nước người dù có như
không.”
Tới
nước này thì ông Đào Duy Từ phải quyết liệt, dứt khoát trả lời:
“Có lòng thì giã (tạ) ơn
lòng
Anh đừng đến nữa mà chồng em
ghen.”
Trên
đây cũng chỉ là một thuyết về chuyện Trèo Bưởi mà thôi, có người cho rằng đem đối
chiếu với văn phong của ông Đào Duy Từ có phần lạc giọng. Vậy biết thế nào là
thực, là hư.
Lại
còn cái giai thoại về bài ca dao đầy tính khêu gợi nữa:
“Lấy chồng từ thuở mười lăm,
Chồng chê tôi bé không nằm với
tôi.
Đến khi mười chín, đôi mươi
Tôi nằm dưới đất chồng lôi
lên gường
Một rằng thương, hai rằng
thương,
Có bốn chân gường gãy một
còn ba.
Ai về nhắn với mẹ cha
Chồng tôi nó đã giao hòa với
tôi.”
Cụ
Từ Phương nói rằng bài ca dao này đã được giới đi làm Cách mạng chống Thực dân
Pháp giải thích là vào năm 1919-1920 các bậc tiền bối Tăng Bạt Hổ, Tôn Thất
Thuyết, Phan Bội Châu, và Nguyễn Thượng Hiền, lúc đó đang hoạt động ở bên Tầu
làm ra. Nhóm bốn người qua Tầu vận động Tầu giúp Việt Nam từ 1915 nhưng Trung
Hoa cứ lờ đi mãi tới năm 1919 thì Tầu mới ve vãn với nhóm này để mưu hợp tác chống
thực dân Pháp ở vùng biên giới Hoa Việt, nhưng lúc đó cái “chân gường bị gẫy” là
cụ Nguyễn Thượng Hiền đã mất ở bên Tầu.
Sở
dĩ các cụ trong nhóm Cách mạng này phải đặt ra bài ca dao khêu gợi đó là nhằm mục
đích tránh sự theo dõi của mật thám Pháp mà vẫn gửi được tin tức ở hải ngoại về
cho các đồng chí ở quốc nội.
Giáo
sư Lưu Trung Khảo hiện cư ngụ ở Newport Beach, cũng xác nhận với chúng tôi rằng
“qủa thực tôi đã nghe được cái giai thoại này trong các giới hoạt động chính trị
lúc trước.”
Tìm
kiếm tài liệu dân ca Việt Nam về các mặt lịch sử, văn học, thể điệu, kỹ thuật…
đều gặp khó khăn chẳng khác nào chuyện đi tìm cố nhân thất lạc:
“Tìm em như thể tìm chim
Chim ăn bể Bắc đi tìm bể
Đông.”
Thăm
hỏi qua Houston, tiểu bang Texas, chúng tôi được giới thiệu để tiếp xúc với cụ
Nguyễn Văn Hòa. Cụ Hòa 86 tuổi, quê ở Thái Bình, đã cho biết rằng “tìm kiếm dân
nhạc làm gì, mất mát quá nhiều, đời tôi nhiều lần chạy giặc, có ngờ đâu về già
lại phải lưu lạc ở cái xứ lạ quê người này.”
Nói
là nói thế, nhưng rồi sau đó cụ Hòa lại khuyến khích cứ gắng làm đi, nhiều
ngưòi làm thì biết đâu câu chuyện “con sáo” không có ngày mọc lại lông cánh mà
bay.
Cụ
Hòa tâm sự là trong thời Việt Minh chiếm Thái Bình, các loại dân ca, các loại
hò hát, ở vùng quê của Cụ đều bị liệt vào loại ca hát phong kiến, lạc hậu, ăn
bám sức lao động. Đường lối triệt để bài phong (bài trừ phong kiến) của Việt
Minh đã giết hết những gì là Truyền Thống, nhất là cuộc Cải Cách Ruộng Đất từ
năm 1954 đến năm 1956.
Theo
cụ Hòa thì những gì gọi là dân ca, dân nhạc miền Bắc còn sống sót được ít nhiều
là do cái tập thể di cư gần một triệu người miền Bắc đã đem vào miền Nam trong
số đó phải kể đến thành phần Văn Nghệ Sĩ Cổ Nhạc.
Một
nghệ sĩ Cổ nhạc nhà nòi của đoàn hát gia tộc ở Hải Phòng là ông Lữ Liên cũng di
cư vào Nam dịp đó. Ông Lữ Liên, 77 tuổi, gốc Hà Nam nhưng sinh ra tại Hải Phòng
, là người xử dụng nhiều loại nhạc cụ cổ như đàn tranh, đàn sến, đàn bầu, hiện
cư ngụ ở Nam California.
Kể
lại dĩ vãng của một nghệ sĩ cổ nhạc suốt đời lận đận theo đuổi tổ nghiệp, ông Lữ
Liên nói “bàn tới dân ca, dân nhạc của mình thật đau lòng, gần như cổ bản không
còn gì cả. Xứ sở chúng ta gặp quá nhiều cảnh tang thương, đã thế trong giới nghệ
sĩ của ta lại có nhiều người vì lầm lẫn đã nhúng tay vào việc làm mất đi tính
cách truyền thống.”
Ông
Lữ Liên tâm sự “bây giờ chúng ta còn tìm đâu ra được một người biết chơi đàn
đáy, một loại nhạc cụ đặc thù của ngành hát ả đào theo đúng tiết điệu cổ bản.”
Một
trong những người lầm lẫn làm hại cho dân nhạc, dân ca lại là nhà sưu khảo kiêm
nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát. Ông Lữ Liên nói “ông Khoát sau thời kháng chiến đã từng
tập hợp các bô lão lại để được nghe các vị tiền bối truyền cho các thể điệu,
các cổ bản. Nhưng ông Khoát lại biến cải đi rất nhiều. Ông Khoát có sự lầm lẫn
lớn là ông tưởng như vậy là bảo tồn được dân nhạc truyền thống nhưng làm như vậy
đã khiến cho những gì là cổ bản, bị lệch lạc đi nhiều, từ đó các nhạc sĩ tân nhạc
cứ dựa vào lối dân nhạc cải biên này và coi như đó là nhạc truyền thống của miền
Bắc.”
Về
hoạt động của các Văn nghệ sĩ Cổ nhạc di cư vào Nam, ông Lữ Liên cho biết thời
đó chính sách của Đệ Nhất Cộng Hòa có nâng đỡ và khuyến khích việc bảo tồn cổ
nhạc vì thế các ông Văn Thuật, Nguyễn Đình Tòng, Nguyễn Tiến Đức đã tụ họp được
các nghệ sĩ cổ nhạc để có ba chương trình hát cổ bản trên đài phát thanh quốc
gia, ấy là chưa kể tới nhiều chương trình cổ nhạc miền Nam nữa.
Tuy
thế, theo ông Lữ Liên , vì hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc đó ồ ạt chạy theo trào
lưu mới, phần khác ngành cải lương được dân chúng thích hơn nên các ban hát
chèo, hát Bộ, ca Bắc, ca Huế, ca Nam theo cổ bản đã bị lấn át. Phần khác, vì vấn
đề muôn thuở là kiếp người không qua khỏi được cái vòng sinh lão bệnh tử nên
các nghệ sĩ cổ nhạc đã mất đi, đem theo cả di sản qúy báu của ngành nhạc truyền
thống.”
Theo
nhạc sĩ Lữ Liên “trải qua biết bao nhiêu tai họa của cả dân tộc, bây giờ người
ta chỉ còn thấy những gì là dân nhạc truyền thống ngày ngày trôi vào dĩ vãng, mờ
ảo như một hình bóng chập chờn…”
Ngô
Đình Vận
Santa Ana, California 1994
No comments:
Post a Comment