Khổng Tử là con người của huyền thoại đồng thời ông
cũng chế tác ra huyền sử Nghiêu Thuấn để làm mẫu mực cho đường lối chính trị của
ông.
Sách
Trung Dung được coi là của Tử Tư cháu nội Khổng Tử có câu rằng “Tổ thuật
Nghiêu Thuấn” tức là nói lại cái đạo của ông Tổ là Nghiêu Thuấn.
Muốn
tìm hiểu vế huyền thoại Khổng Tử chúng ta nên chấp nhận mọi phương cách để cố gắng
tìm biết các huyền thoại ấy đã tô vẽ tới mức độ nào và ảnh hưởng đến học thuật
của Khổng Tử ra sao.
Cái
được gọi là đạo của Khổng Tử gắn liền tới sử Trung Hoa bao gồm cả hai giai đoạn
Thần Thoại và Lịch Sử; do đó chúng tôi tìm đôc một số sử sách đối chiếu với một
mớ tài liệu cũ để trình bày cổ sử Trung Quốc tóm tắt như sau:
Thần
thoại của người Trung Nguyên có gốc hai bộ tộc Hoa Hạ sau này là dân Hán đều
cho rằng Bành Tổ đã khai sáng ra Trời, Đất sau đó là Tam Hoàng, Địa Hoàng và
Nhân Hoàng.
Sau
Tam Hoàng là Ngũ Thị gồm:
1. Hữu SàoThị, ông này chế ra cách làm tổ trên cây.
2. Toại Nhân Thị, ông này tìm ra cách lấy được lửa khi bổ
củi.
3. Phục Hy Thị, ông này rất nhiều tài trong đó có chuyện
ông đặt ra Bát Quái khởi đầu của Dịch Học.
4. Nữ Oa Thị, bà này lấy đá vá trời để cứu lụt.
5. Thần Nông Thị, ông này tìm ra cách trồng ngũ cốc và dược
thảo.
Tiếp
theo là thời kỳ Truyền Thuyết gồm Ngũ Đế; trong số này có hai ông vua là Đường
Nghiêu và Ngu Thuấn được coi là hai bậc minh quân, đức độ có long thương dân
khiến cho hai thời đại này thịnh trị và an bình nhất.
Trái ngược với Nghiêu Thuấn là các vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ
nhà Thương là hai hôn quân, độc ác hại
dân.
Sau nhà Thương là nhà Chu; gốc của nhà Chu là Khương
Nguyên, bà này làm cung phi của Hoàng Đế; bà sinh ra Cơ Khí làm quan dạy canh
nông được cả hai thời Nghiêu Thuấn trọng dụng. Tù cái gốc mẫu hệ Khương Nguyên
trải qua nhiều đời làm tôi của nhà Thương; tới thời Cơ Xương (1090-1050 TCN) thì
Trụ Vương nhà Thương phong cho Cơ Xương là Tây Bá tức là đứng đầu cá nước chư hầu
ở phía Tây. Cơ Xương mở rộng đất đai, bành trướng thế lực bằng cách đánh chiếm
một số bộ lạc khiến Trụ Vương nghi ngờ có mưu đồ làm phản nên Trụ Vương đã bắt
giam Cơ Xương. Một số đại thần của nước Chu bèn dung mưu dâng gái đẹp, ngựa hay
để xin Trụ Vương trả tự do cho Cơ Xương. Cơ Xương được thả về, ông ta ngấm ngầm
xây dựng nước Chu thành một nước có thực lực mau lẹ. Trong khi Trụ Vương say mê
tửu sắc nên nhà Thương đi dần vào chỗ suy tàn.
Tây Bá Cơ Xương chết, con là Cơ Phát (1134-1116 TCN) nối
ngôi, ông này liên kết với một số chư hầu rồi sai con của mình đem quân đánh
nhà Thương. Trụ Vương thua chạy phải nhảy vào đám cháy mà tự tử.
Cơ Phát lập ra vương triều nhà Chu, phong cho cha là Văn
Vương còn mình lấy hiệu là Võ Vương. Tộc Chu có tín ngưỡng Thiên Đạo vì thế vua
Chu được coi là Thiên Tử (con của Trời); Ngay từ khi mới xưng Vương, Võ Vương
đã được một số người tài như Khương Tử Nha (Lã Vọng) làm quân sư, Chu Công Đán
(Chu Công) em ruột của mình làm phò tá…
Nhà Tây Chu được cái may mắn là vào thời đó dân Trung
Nguyên đã chế tạo được đồ sắt nên việc canh nông, buôn bán rất phát đạt. Nhà
Tây Chu cũng định ngay giai cấp xã hội gồm: thứ nhất là Thiên Tử, thứ hai là Quý
tộc và Vua của các nước chư hầu, thứ ba là Thứ Dân, thứ tư là Nô Lệ. Việc phong
đất cho các nước chư hầu nhà Chu đều cấy người trong vòng giai tộc hoặc thân
thích tin cậy.
Nhà Tây Chu đến đời vua thứ 12 là U Vương Cơ Cung Niết
(781-771 TCN) mà sử sách Trung Quốc coi là hôn quân độc ác, hại dân không thua
gì Kiệt, Trụ. U Vương làm cho nhà Tây Chu suy yếu và cuối cùng thi U Vương bị
giết chết.
U Vương mất, các chu hầu nổi lên đánh phá lẫn nhau tới thời
vua thứ 13 là Bình Vương Cơ Nghi Cửu (770-729 TCN) bị các thế lực chư hầu bứt
bách nên phải thiên đô tới Lạc Dương (Hà Nam ), từ đó được gọi là Đông Chu . Các vua của nhà Đông Chu
chỉ là loại vua bù nhìn được các chư hầu bày ra đứng giữa để kềm chế các tranh
chấp với nhau vì không nước nào có thể họp lại để tạo nên một thế lực đủ mạnh để
loại bỏ nhà Chu .
Tóm lược cổ sử của Trung Quốc để dẫn tới thời đại Xuân Thu
là thời gian được truyền thuyết cho là Kỳ Lân xuất hiện, Khổng Tử sinh ra.
Thời Xuân Thu với thế lực của bọn Ngũ Bá, vua Đông Chu chẳng còn đất đai chỉ còn ở nhờ vào đất của chư hầu
thậm chí có lúc không có cả lễ nối ngôi của vua nữa. Tính từ thời Văn Vương, Võ
Vương dựng nghiệp Tây Chu tới Khổng Tử các xa khoảng 600 năm.
Sách sử, tài liệu viết về Khổng Tử thì không biết cơ man
nào mà kể, huyền thoại, truyền thuyết, ngoại sử được cả đám nhà nho tha hồ múa
bút, tô vẽ cho tài đức của đấng thánh nhà nho tức là Khổng Tử. Các sách cổ thời
Xuân Thu, Chiến Quốc như Tả Thị Xuân Thu (Tả Truyện) chuyện Lão Tử, Mặc Tử,
Trung Dung, Đại Học, Mạnh Tử, Trang Tử, Sử Ký, Tuân Tử, Tạp Gia… đều viết về Khổng
Tử (551-479 TCN).
Mặc dù rất nhiều sách vở đời Tiên Tần đều nói về Khổng Tử
nhưng nhà nho thời sau chỉ căn cứ vào Sử Ký của Tư Mã Thiên vì sách này viết
dài về Khổng Tử mà lại ít chuyện thêu dệt nhất. Sử Ký cũng đề cập đến Khổng Tử
là con cầu tự của cặp vợ chồng Thúc Lương Ngột và Nhan Thị (Trưng Tại).
Một điều kỳ lạ nhất mà chúng ta đọc được đó là trong khi
các tầng lớp Nho Sĩ nghiên cứu thì phần lớn dựa vào Sử Ký nhưng chính Khổng Tử
lại tin vào Thiên Mệnh của mình là Tố Vương của thời Chu mạt.
Chuyện Tố Vương là một loại “bí kíp” gia truyền được viết
theo kiểu ngoại sử, tạp gia khiến tác giả Đoàn Trung Còn đã cóp nhặt rồi dịch để
đưa vào sách “Truyện Đức Khổng Tử”. Dịch giả Đoàn Trung Còn đã theo lệ xưa nên
không ghi rõ xuất xứ các tài liệu mà ông sưu tầm được với khả năng chữ Hán của
ông.
Câu chuyện Tố Vương, Kỳ Lân ra đời được Đoàn Trung Còn kể
như sau:
“Thúc Lương Ngột là một vị quan võ, mặc dù tuổi gần bảy
mươi, nhưng không bằng long về chỗ thiếu con trai kế tự. Ông bèn cầu hôn nơi
nhà họ Nhan. Nhan Lão có cả thảy năm người con gái đều đúng lứa, nhưng ngại vì
quan Đại phu tuổi cao nên không nở ép cô nào cả.
Ông bèn gọi cả năm cô đến bảo rằng: ngày nay các con đều đã
lớn, đến tuổi lấy chồng. Quan Đại phu Thúc Lương Ngột vì hiếm hoi nên muốn kiếm
vợ trong hang các con .
Người ta vốn là phương diện quốc gia, ngặt một điều niên kỷ
có cách biệt với các con. Cha muốn hỏi ý các con xem đứa nào có ưng thì cha gã
về nơi ấy, không thì thôi, cha không ép.
Các con đều cuối đầu lặng thinh. Người con út là Trưng Tại
bèn đứng lên thưa: - Phàm con gái ở trong gia đình, phải tùy theo cha mẹ sở định.
Cha muốn tính lẽ nào, các con cũng vâng lời, cần gì cha phải hỏi han làm chi
cho nhọc.
Nhan Lão được lời bèn hứa gã Trưng Tại cho Thúc Lương Ngột.
Cuộc hôn nhân thành rồi, hai vợ chồng thường ưu tư về việc thiếu con trai nối
dòng. Cả hai bèn đề huề lên đỉnh Ni Sơn, ở nơi giáp ấp Trâu và huyện Khúc Phụ đề
cầu tự. Trong lúc Trưng Tại lên núi, lá cây, lá cỏ đều sửng lên, như hớn hở rước
mừng. Đến lúc Trưng Tại xuống núi, cây cỏ lại xụ lá như đưa về. Đêm lại, Trưng
Tại nằm mộng thấy Hắc Đế hiện về mach rằng:
-
Bà sẽ được
Thánh tử, đến ngày hãy lên Không Tang mà sinh.
Sáng
ngày, Trưng Tại biết mình đã thọ Nhâm Thần. Một hôm bà lại nằm mộng thấy năm
ông già rất đạo mạo tự xưng là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ - Ngũ Hành Tinh. Các
ông có dẫn đến con thú bằng con trâu ngé, có một sừng, mình đầy vảy như rồng. Tới
trước Trưng Tại, con thú ấy cúi phục xuống, nhả ra một cái thẻ ngọc, trên ấy có
chạm mấy chữ: Thủy Tinh Chi Tử, Kế Suy Châu Nhi Tố Vương (con của chất thủy
tinh, nối nghiệp nhà Châu đã suy nhưng làm vua không ngôi).
Trưng
Tại trong lòng vẫn lấy làm kỳ dị, lấy sợi tơ đỏ quấn lên sừng con thú ấy. Nó
bèn chạy đi. Trưng Tại đem việc chime bao thuật lại với chồng. Thúc Lương Ngột
bảo: - Thú ấy là Kỳ Lân đó.
Gần
kỳ lân bồn, Trưng Tại hỏi chồng xem có đất nào tên gọi Không Tang chăng. Ngột
đáp:
- Phía Nam Sơn có lỗ mội lớn, ăn trong đá, bầy
miệng ra ngoài, nhưng chưa hề có nước chảy ra. Chỗ ấy tiếng tục gọi là Không
Tang.
Trưng Tại bèn xin chồng đến đưa mình đến đó để chờ ngày
sinh sản. Ngột hỏi duyên do, bà bèn đem chuyện nằm mộng thấy Hắc Đế dạy khuyên,
thuật rành rành. Ngột cũng chiều long, đưa vợ đến Không Tang, che lều trước lỗ
mội, an trí bà vợ nơi đó.
Đến đêm có hai con rồng
từ trên không từ trên không bay xuống chầu chực hai bên lều. Lại thấy hai vị
Tiên Nữ bưng nước hoa rẩy tắm cho Trưng Tại. Trưng Tại chuyển bụng sinh ra Khổng
Tử ngay trước miệng lỗ mội chỗ Không Tang. Lúc ấy nhằm tháng mười nột, tiết
đông lạnh lẽo bỗng tự nhiên trong lỗ mội, nước ấm trào ra tắm sạch mình Đức Khổng
Tử vừa mới chào đời. Bấy giờ nhằm năm Canh Tuất (551 trước Dương lịch) năm thứ
hai mưoi hai đời vua Tương Công nước Lỗ”.
Đọc Luận Ngữ chúng ta thấy Khổng Tử
nói nhiều lần nói mình giữ Đạo của Văn Vương, Võ Vương. Khổng Tử cũng buồn phiền
than rằng từ lâu không còn nằm mơ thấy Chu Công nữa có lẽ Đạo của ta suy rồi.
Khổng Tử không những mong làm Tố Vương
mà còn muốn thực hiện đường lối chính trị
của Chu Công nữa. Đường lối được coi là tốt đẹp này của Chu Công được ghi trong
Chu Thư (Kinh Thư của nhà Chu) qua việc Chu Công khuyên cháu là Cơ Tụng tức là
Thành Vương lên ngôi năm 13 tuổi được Chu Công làm nhiếp chính trong suốt 7
năm.
Lới khuyên của Chu Công với Thành
Vương được Nhượng Tống dịch như sau: “Nơi người quân tử ở là chớ có rỗi. Biết
trước cái khó khăn của sự gieo cấy rồi mới nhàn rỗi thì biết nơi nương tựa của
dân hèn. Xem bọn dân hèn, cha mẹ nó siêng chăm gieo cấy. Con nó lại không biết
cái khó nhọc của gieo cấy rồi mới nhàn rỗi, nói xổng, nói càng không thì khi
cha mẹ nó nói rằng: người đời trước chẳng nghe biết gì cả”.
Khổng Tử không thấy Kỳ Lân xuất hiện,
lúc về già “dừng bước giang hồ” quay về nước Lỗ viết Kinh Xuân Thu, cuốn
sách kết thúc ở chuyện Kỳ Lân bị thợ săn giết chết; vì thế Kinh Xuân Thu sau đó
còn được gọi là Lân Kinh.
Từ các sự việc kể trên, chúng ta thấy
rằng cả đời Khổng Tử đã bị “ám ảnh” nặng nề về cái được coi là ý trời đặt
ông vào danh phận Tố Vương trong truyền thuyết của gia đình.
Thời Xuân Thu được coi là thời Chu mạt với Ngũ Bá gầm gè lẫn nhau, ngay cả sử sách cổ
cũng ghi tên 5 nước khác nhau. Thuyết thứ nhất gồm Tề, Tấn, Sở, Tần, Tống. Thuyết thứ hai gồm Tề, Tấn,
Sở, Ngô, Việt.
Thời đại loạn này theo Hồ Thích thì nó
kéo dài 240 năm, trong khoảng thời gian này đã có 36 lần tôi thí vua, mà trong
đó cả việc con giết cha cướp ngôi ở nước Sở.
Đọc lại cổ sử của Trung Quốc, chúng ta
cũng thấy việc tôi giết vua đã có từ thời nhà Hạ qua truyện Hàn Trạc giết Hậu
Nghệ. Tự Thiếu Khang con dòng chính của nhà Hạ bị Hàn Trạc lùng giết nên đã phải
trốn về ở với bộ lạc Hữu Ngu Thị ở đất Hà Nam. Thủ lãnh của bộ tộc này không
đành để dòng giống nhà Hạ tuyệt nọc bèn cưu mang Thiếu Khang và gã luôn con gái
cho ông này với hy vọng về sau Thiếu Khang sẽ tái lập lại vương triều nhà Hạ.
Trong thời Xuân Thu, Chiến Quốc việc
đánh giết giữa các nước với nhau là chuyện thông thường. Con cái dòng dõi của
các vua, chúa hay bị truy sát, do đó những vụ chạy trốn, náu thân của giới quý
tộc với mánh khóe “tàng long, phục hổ” theo cách “trồng người” đã
được Quản Trọng đề ra cũng rất phổ thông.
Quý tộc nước này bị đánh đưổi, chạy
qua nước khác lại được giới quyền quý sở tại che dấu bằng cách đổi tên, đổi họ
rồi gã con gái để giữ giống cho kẻ thọ nạn với mong muốn mai sau kẻ bị nạn sẽ
phục hồi cơ nghiệp của ông cha.
Ở thời Chiến Quốc, chúng ta cũng biết
chuyện Lã Bất Vi (282-235 TCN) chỉ là một con buôn của nước Triệu. Lã Bất Vi rất
giàu có cái gì ông ta cũng buôn bán nên ông ta thi hành luôn thủ đoạn “buôn
vua”. Công tử của nước Tần là Tử Sở bị đầy qua nước Triệu, Lã Bất Vi thấy
có mối buôn được bèn bỏ hàng trăm lạng vàng ra giúp đỡ Tử Sở rồi gài bẫy cho
công tử này gặp thiếp của mình là Triệu Cơ.
Triệu Cơ là con gái của một gia đình
quý tộc rất thế lực ở nước Triệu nhưng Lã Bất Vi cũng mua chuộc để họ gã cho
làm thiếp của ông ta; Triệu Cơ lúc đó đã có bầu nhưng có tài đàn hay, múa giỏi
nên chỉ một lần Lã Bất Vi sai Triệu Cơ ra tiếp đãi rót rượu cho Tử Sở và vì có
âm mưu sắp đặt trước của Lã Bất Vi nên Công tử nước Tần đã mê mẫn Triệu Cơ
ngay. Lã Bất Vi nhường luôn Triệu Cơ cho Tử Sở, sau đó Triệu Cơ đẻ ra Doanh
Chính, trên danh nghĩa Doanh Chính là con nối dòng của vua Tần nhưng thật sự là
con của Lã Bất Vi.
Khi Doanh Chính 13 tuổi loên ngôi xưng
là Tần Thủy Hoàng Đế (259-210 TCN) thì Lã Bất Vi là Tể Tưóng Nhiếp Chính nhưng
khi Tần Thủy Hoàng có thực quyền thì không ưa gì ông bố gian xảo, dâm đảng này.
cuối cùng Lã Bất Vi phải uống thuốc độc tự tử vì sự đe dọa của chính con trai
đang làm vua là Tần Thủy Hoàng.
Trở lại cái vòng luẩn quẩn “nuôi nọc
vương hầu thất thế” thời Xuân Thu, Chiến Quốc thì chúng ta cũng dễ liên tưởng
để suy luận ra rằng biết đâu việc Thúc Lương Ngột gần 70 tuổi và vợ Nhan Thị ở
tuổi đôi mươi không là một “thủ đoạn chính trị” rất bí mật của dòng giống nhà
Chu đang nương náu, ần thân ở nước Lỗ.
Giả thuyết một công tử trai trẻ thuộc
dòng chính thống nhà Chu đã gặp Nhan Thị trên Ni Sơn để làm “nhiệm vụ trồng
người” mà Lão Ông Thúc Lương Ngột “lực bất tòng tâm”. Ngược lại Lão
ông Thúc Lương Ngột cũng rất hãnh diện vì tỏ được lòng tận tụy, lo lắng cho đại
nghĩa nhà Chu .
Giả thuyết “trồng người” theo chước
“Tàng Long Phục Hổ” này cho thấy tất cả cái vở kịch cầu tự, Hắc Đế ban ơn chỉ
để che đậy cả một toan tính lớn lao để phục hồi cơ nghiệp nhà Chu .
Hơn thế nữa giả thuyết này còn có ưu thế thuyết phục về khoa học, sinh lý hơn
là câu chuyện cầu tự đẻ ra Thánh Tử với điềm báo Kỳ Lân về sự sinh ra của Khổng
Tử.
Ngô Đình Vận
February 15, 2012
No comments:
Post a Comment