Khổng
Tử một đại chính khách của nước Lỗ đã “lê gót giang hồ” ở vùng Hoa Hạ thời Xuân
Thu nhưng vua các nước Chư hầu đều chê là Học thuật của Khổng Tử thủ cựu, không
thực tế.
Nhiều Cao sĩ, Quan đại phu nhiều nước chê Khổng Tử chủ trương
theo lễ nghĩa nhà Tây Chu là cổ hủ.
Theo bài Tiểu tựa của Trí Đức Tòng Thơ mở đầu sách Truyện Đức
Khổng Tử của Đoàn Trung Còn thì cuộc đời của Đức Thánh Khổng rất gian nan. Tiểu
tựa viết: “Tiếc thay! Ngài sinh nhằm thời loạn, nhằm một thời kỳ mà gươm giáo
và mưu gian luôn luôn đắc thắng, Ngài đã chịu lấy sự thiệt thòi của hạng trí thức
văn nhân. Nhiều năm làm quan ở nước Lỗ, thăng tới chức Tể Tướng Nhiếp Chánh; công
lao khôn xiết, thế mà khi bị người bạc đãi, phải sấp lưng đi, không được một tiếng
cám ơn, một lời lã dã.
Về sau ba mười ba năm mòn bánh xe trên các con đường trong
cõi thiên hạ nhà Châu, trải qua bảy mươi hai nước chư hầu không một nơi nào trọng
dụng Ngài…
Đến chết đời đời đua nhau phong tặng… người ta thờ kính Ngài,
đưa Ngài lên làm Giáo chủ một Tôn Giáo tức là Nho Giáo”.
Trong thời đại của Khổng Tử, theo sách Sử Ký của Tư Mã Thiên
thì đã có cả 3000 người là học trò của thầy Khổng. Nhiều tài liệu khác ghi nhận
trong số đông đảo đệ tử đã có 72 người đạt tới mức hiền giả, người đời sau quen
gọi là “Thất Thập Nhị Hiền”.
Về phía bài bác Khổng Tử ngay trong thời đại của ông cũng có
nhiều cao nhân, ẩn sĩ.
Sử
gia Hồ Thích trong cuốn Trung Quốc Triết Học Sử đã rất chú ý tới các phương pháp
Hiệu Khám (chỉnh lý thư tịch cổ) và Huấn Hỗ (chú thích cổ văn) của các nhà nghiên
cứu Khổng Học vào đời nhà Thanh. Hồ Thích cũng viết rằng: “Muốn biết học
thuyết của Khổng Tử cần phải biết thời đại của Khổng Tử”. Từ ý kiến này nhiều người đi sau đã chế
ra rằng: “Phải đặt Khổng Tử vào thời đại của ông thì mới có thể phê phán Khổng
Tử được”.
Ở đây chúng ta không loại bỏ bất cứ phương pháp nào để tìm
hiểu một nhân vật nhiều huyền thoại như Khổng Tử. Tuy nhiên về mặt phê bình để
chắc ăn, chúng ta nên đặt Khổng Tử vào giữa những cao nhân, ẩn sĩ, đại phu cùng
thời với Khổng Tử để nghe họ nói gì về Khổng Tử.
Những vị này là những ngưòi đã gặp gỡ, đối đáp, biện luận với
Khổng Tử chẳng hạn như Lão Tử, Án Anh, Tử Tây, Tử Lộ, Mặc Tử… là những người sống
ở thời Xuân Thu, Chiến Quốc. Phương cách này sẽ giải quyết ổn thỏa cái ý kiến
cho rằng: “Người đời sau hiểu sai Khồng Tử vì không sống ở thời đại của ông”.
Một điều đặc biệt may mắn cho chúng ta là đang sống trong
thời của Internet vì thế chúng ta rất dễ tìm ngay ra được các tài liệu cũ, cổ
thư liên hệ tới học thuật của Trung Quốc gồm nguyên bản hoặc được dịch ra Anh
Ngữ, Pháp Ngữ…
Chúng ta chỉ cần đánh máy vài chữ như “Confucius
Documents”, “I Ching”, “Chung Yung”… là tìm ngay được cả “mạng lưới thư
viện” với nhiều tác giả danh tiếng như James Legge, Arthur Waley, Charles
Muller, Wang Tao, Hong Rengan, Wang Pi, D.C Lau…
Đặc biệt học giả James Legge (1815-1897) là nhà nghiên cứu
về Văn Hóa Cổ Đông Phương thuộc Đại học
Oxford Anh quốc. Ông này được sự hợp tác của các học trò người Hoa nên đã dịch
nhiều kinh sách cổ của Trung Hoa trong các năm 1893, 1895, 1899 nằm trong khoảng
thời từ Từ Hy Thái Hậu của nhà Thanh, Trung Quốc.
Trong thời gian ở Hồng Kông, James Legge đã dạy nhiều học
trò người Hoa, lớp học trò này về sau được coi là mở đầu cho Tân Học phái Văn hóa,
Triết học của Trung quốc.
Như trên chúng ta đã nói về sự ích lợi của Internet để tìm
kiếm tài liệu tham khảo; tiện đây chúng ta thử áp dụng sự đối chiếu tài liệu để
biết được cách dịch thuật của mỗi người mà có khi khác ý với nhau.
Sau đây là một vài thí dụ qua sách Luận Ngữ, Thiên 07 Ung Dã
(Shu R.): “Tử viết: Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã. Cận chi tắc bất
tốn, viễn chi tắc oán”. Nguyễn Hiến Lê dịch: “Khổng Tử nói: Chỉ hàng tỳ
thiếp và tôi tớ là khó cư xử với họ. Thân cận với họ thì họ nhờn, xa cách với họ
thì họ oán”. James Legge dịch thẳng từ chữ Hán ra Anh ngữ: “Book 07 Shu
R. - The Master said: Of all people, girls and servants are most difficult to
behave to. If your are familiar with them, they lase their humility. If you
maintain a reserve towards them, they are discontented”.
Một thí dụ khác, sách Luận Ngữ thiên 17 Dương Hóa (Yang
Ho): “Tử vị Bá Ngư viết: Nhữ vi Chu Nam , Chiêu Nam hĩ hồ. Nhân
nhi bất vi Chu Nam, Chiêu Nam
kì do chính tường nhi lập dã dư”. Nguyễn Hiến Lê dịch: “Khổng Tử bảo Bá
Ngư: Con đã học Chu Nam , Chiêu Nam chưa? Người
nào không học Chu Nam, Chiêu Nam
thì không khác đứng quay mặt sát vách tường”. James Legge dịch ra Anh ngữ:
“The Master said to Po-yu: Do you give yourself to Chau-nan and the Shao-nan.
The Man who has not studied the Chau-nan and the Shao-nan is like one who
stands with his face right against a wall. Is he not so?”.
Trở lại với các sinh hoạt của Khổng Tử ở thời Xuân Thu, người
đầu tiên dám mắng Khổng Tử là Lão Tử.
Sách Lịch
Sử Triết Học Phương Đông của Nguyễn Đăng Thục trang 267-268 đã trích dịch Sử Ký
của Tư Mã Thiên nguyên văn như sau: “Lão Tử là người nước Sở, huyện Khổ, quận
Lệ, làng Khúc Nhân. Bắt đầu là họ Lý, danh là Nhĩ, tự Bá Dương, tên húy là Đam,
làm quan sử của nhà Chu . Khổng Tử đến đất của
nhà Chu hỏi Lão Tử về Lễ. Lão Tử nói: Những điều
của ông nói thì người cùng xương đếu nát cả rồi chỉ còn lời nói lại thôi. Vả lại
người quân tử gặp thời thì lên xe, không gặp thời thì đội cỏ bồng mà đi. Ta
nghe thấy rằng người lái buôn khôn, giấu của kín như không có gì. Người quân tử
giấu đức thì giáng điệu như kẻ ngu si. Người hãy bỏ cái khí sắc kiêu ngạo cùng
lòng tham muốn của người đi, bỏ cái sắc thái với cái ý dâm dật của người đi, những
điều ấy không có ích gì cho thân người cả. Ta chỉ có bấy nhiêu lời để bảo cho
người biết đấy thôi”.
“Khổng
Tử ra về gọi học trò mà bảo rằng: Chim thì ta biết nó có thể bay, cá thì ta biết
nó thể lội, thú thì ta biết nó có thể chạy. Bay có thể đánh lưới bắt, lội có thể
câu, chạy có thể đánh bẫy. Đến như loại rồng thì ta không biết nó cưỡi mây mà lên
trời lúc nào. Nay ta gặp được Lão Tử tưởng như ta đã thấy được rồng vậy”.
Người thứ hai chê Khổng Tử là Án Anh, ông này là đại
phu của nước Tề, khi tháp tùng vua Tề qua Lỗ nên đã gặp Khổng Tử. Sau khi nghe
Khổng Tử nói về chuyện tòng Chu, Án Anh đã can Tề Cảnh Công không nên nghe Khổng
Tử; sách Lịch Sử Triết Học Phương Đông của Nguyễn Đăng Thục đã trích một đoạn về
Án Anh can vua Tề rằng: “Từ khi các bậc thánh hiền của chúng ta mất đi rồi và
nhà Chu đã suy vi, lễ nhạc của chúng ta đã đồi bại vì bị quên đi rất nhiều. Ngày
nay Khổng Khâu đòi lập lại lễ nhạc, lễ nghi trong triều, ngoài miếu. Như thế thì
suốt đời người ta cũng chưa thuộc hết được những nghi lễ và khảo sát hết các
chi tiết. Tôi tự hỏi nhà vua có nên cử dụng Khổng Khâu nếu nhà vua nghĩ tới quyền
lợi của dân”.
Một Đại
phu khác của nước Sở là Tử Tây cũng can Sở Chiêu Vương không nên nghe theo Khổng
Tử trong việc chính sự.
Ngược lại
Khổng Tử cũng chê Quản Trọng (725-645 TCN) Tể tướng của nước Tề là Quản Trọng
không biết giữ lễ của đạo quân thần và Tề Hoàn Công là vua của chư hầu mà dùng
lễ của Vương quyền Thiên tử.
Trong sách
Luận Ngữ cũng nói tới việc Tử Lộ một đệ tử của Khổng Tử là người nóng tính, nói
thẳng nên Tử Lộ đã nhiều lần can gián thầy Khổng vì sợ thầy lạm dụng “quyền
biến” mà sinh họa. Sách LSTHPĐ của Nguyễn Đăng Thục ghi đại ý rằng lần ấy Tử
Lộ thấy Khổng Tử và phòng Nam Tử là vợ của vua nước Vệ. Nam Tử đẹp rực rỡ nhưng
rất dâm đãng. Tử Lộ đã gay gắt trách cứ vì nghi thầy sa ngã hoặc mắc phải điều
tiếng thị phi “nam đáo nữ phòng..” thầy Khổng vì thế đã phải thề độc với
Tử Lộ mặc dù Khổng Tử rất ghét dị đoan, tin nhảm.
Trong sách
Luận Ngữ cũng ghi việc Khổng Tử phê bình nhiều đại phu, cao sĩ của các thời nhằm
phản biện sự chỉ trích đồng thời giãi bầy về cái Đạo nhập thế của ông. Các nhân
vật được Khổng Tử nói tới như Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng, Liễu Hạ Huệ…
Một nhà
tư tưởng khác là Mặc Tử (khoảng 478-392 TCN) theo Hồ Thích thì Mặc Tử qua đời vào
lúc Khổng Tử đã gần 60 tuổi. Mặc Tử sinh ra ở nước Lỗ, mắt được nhìn thấy các
việc quái lạ của Khổng Nho gây ra nên ông đã lập ra một phái mới để phản đối. Mặc
Tử trách Nho gia rằng: “Tham ư ẩm thực nõa ư tác vụ” có nghĩa là tham ăn
uống mà lại lười làm việc. Mặc Tử còn công kích Nho gia rất chi tiết rằng “Đạo
Nho có bốn điều đủ làm mất thiên hạ, kẻ Nho cho rằng trời không minh, cho rằng
quỷ không thiên, quỷ không bằng lòng cái đó làm mất thiên hạ. Lại chôn cất hậu,
để trở lâu, làm ra quan quách nặng, chế áo khâm nhiều, đưa ma như thể dọn nhà,
khóc lóc ba năm phải nâng mới dậy, phải chống gậy mới đi, tai không nghe gì, mắt
không nhìn gì. Cái đó đủ làm mất thiên hạ. Lại đàn hát, trống múa, tập làm âm
nhạc. Cái đó đủ làm mất thiên hạ. Lại cho là có số mệnh. Nghèo, giàu, sống lâu,
chết non, thái bình, loạn lạc, an lành, nguy hiểm đều có khuôn sẵn, không thêm
bớt. Người trên làm theo ý ấy, ắt không nghe đến chính trị vậy. Kẻ dưới làm
theo ý ấy, ắt không thiết đến làm việc vậy. Cái đó đủ làm mất thiên hạ”.
Nho học
sau khi Khổng Tử mất thì đám đệ tử của ông đã chia phe, họ luôn luôn tranh cãi
với nhau rồi chia thành 8 phái và phái nào cũng tự nhận là Khổng Nho chính thống.
Trong hàng
đệ tử của thầy Khổng có Tăng Sâm (505-435 TCN) là học trò nhỏ tuổi nhất; Tăng Sâm
cũng được cho là người viết sách Đại Học. Cuốn sách này giải thích rõ về Tam Cương
là Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ được coi là sách quan trọng để học đạo nho.
Tăng Sâm
(Tăng Tử) cũng là thầy dạy Khổng Cấp (Tử Tư) tức là cháu nội của Khổng Tử. Tử Tư
được coi là người viết sách Trung Dung, sách này giảng giải thêm về cái đạo của
Khổng Tử là luôn luôn giữ mình ở mức vừa phải không thái quá hoặc bất cập.
Trong sách
Trung Dung, Tử Tư đã viết một câu quan trọng rằng: “Tổ thuật Nghiêu Thuấn”
tức là thuật lại chuyện Nghiêu Thuấn như bậc tổ của mình chính vì vậy mà phái Tân
học cho rằng Khổng Tử đã viết ra Ngu Thư tức là Kinh Thư kể chuyện hai đời Ngu,
Thuấn.
Tiếp
theo là Mạnh Tử (371-287 TCN), ông này là học trò của Tử Tư; Mạnh Tử đã cực lực
đả kích các học phái khác ở thời Chiến quốc để bênh vực Khổng Nho. Trong thiên Đằng
Văn Công Hạ, Mạnh Tử viết rằng: “Vua Thánh không ra đời nữa, chư hầu hoành hành,
kẻ trí thức nói ngang. Lời nói của Dương Chu, Mặc Địch tràn lan khắp thiên hạ.
Người trong thiên hạ không noi theo họ Dương thì cũng noi theo họ Mặc”.
Tuy nhiên,
cũng vì chuyện có rất nhiều cao nhân, ẩn sĩ chê Khổng Tử nên Mạnh Tử đã sửa nhiều
khuyết điểm cho Khổng Học. Mạnh Tử đã đề ra thuyết Tâm Linh; nguyên tắc nổi tiếng
của Mạnh Tử là “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, đường lối lấy
dân làm gốc là do Mạnh Tử đề xướng.
Trong
thời Chiến Quốc là thời nở rộ của học thuật Trung Quốc gọi là “Bách gia chư
tử” nào là Đạo gia, Danh gia, Pháp gia, Âm Dương gia, Tung hoành gia, Tạp
gia… các học phái này luôn luôn biện luận, đối kháng lẫn nhau. Trong giai đoạn
này có các nhà biện luận nổi tiếng như Huệ Thi, Công Tôn Long… đặc biệt nhất là
Trang Tử (369-286 TCN); Trang Tử chịu ảnh hưởng nhiều bởi Lão Tử vì thế học
thuyết của ông được xếp vào phái Đạo gia.
Trang Tử
viết Nam Hoa Kinh, cuốn sách ghi lại những cuộc nghị luận giữa Trang Tử và Huệ
Thi. Theo LSTHPĐ-NĐT thì trong thiên Tề Vật Luận Trang Tử đã chống lại hai phái
Nho và Mặc, ông viết rằng: “Đạo giấu ở đâu mà có chân lý, chân ngụy? Lời nói
giấu ở đâu mà có phải trái? Đạo đi về đâu mất mà không còn, lời nói còn ở đâu mà
không thể được? Đạo ẩn ở chỗ nên nhỏ, lời nói ẩn ở chỗ ngọn ngành. Bởi thế mà lý
phải trái của Nho, Mặc, lấy làm phải điều kẻ kia cho là trái và cho làm trái điều
kẻ kia cho là phải”.
Cũng
trong thời Chiến quốc, chúng ta còn thấy học phái Pháp gia đã kịch liệt chỉ trích
Khổng Nho; chẳng hạn như Công Tôn Ưởng - Thương Quân (khoảng 390-338 TCN) đã viết
trong Canh pháp rằng: “Những thế hệ trước không cùng một lý thuyết, làm sao
phải khuôn khổ theo cổ nhân? Những vua trước không nối theo nhau, tại sao phải
bắt chước nghi lễ của họ.
Trong sách
Luận Ngữ bản dịch của Nguyễn Hiến Lê ở các trang 170, 171 đã ghi rất kỹ về cung
cách giữ lễ nhà Chu của Khổng Tử. Ở đây chúng
ta hãy đọc một đoạn mô tả như sau: “Khi vô cửa lớn của triều đình, ông khom
khom như cửa thấp quá. Ông không đứng ở giữa cửa, khi đi không dẫm lên ngạch cửa.
Đi ngang qua (ngai trống) ông biến sắc, chân run run, nói như chẳng ra lời. Khi
ông vén áo lên thềm, ông khom khom, nín hơi như khó thở. Khi lui xuống một bực,
sắc mặt ông hòa hoãn vui vẻ. Xuống đến bậc cuối, ông đi mau, hai cánh tay đưa
thẳng như cánh chim. Trở về chỗ cũ thì ông lại cung kính, vẻ như không yên tâm”.
Đọc qua
đoạn này, chúng ta dễ liên tưởng đến một màn hài kịch do Khổng Tử “tự biên tự
diễn”. Những đạo diễn, diễn viên người Hoa bây giờ như Trương Nghệ Mưu, Châu
Nhuận Phát… so với thầy Khổng chỉ đáng xách dép cho thầy.
Vào cuối
thời Chiến quốc còn có mấy nhà tư tưởng nổi tiếng là Tuân Tử (khoảng 313-238
TCN) và Hàn Phi Tử (khoảng 280-233 TCN). Các học sĩ này đếu cho rằng đường lối
của Khổng Nho cổ hủ, thiếu thực tế.
Sách Trung
Quốc Triết Học Sử của Hồ Thích đã đặt cả một tiểu mục về quan điểm của Tuân Tử
là nên “Bắt chước các vua sau”. Hồ Thích trích dẫn một đoạn thiên Phi Tướng
của Tuân Tử viết rằng: “Thánh vương có hàng trăm người, ta phải theo ai? Đáp:
văn vật lâu đời nên tiêu mất, chức Hữu tư giữ phép, theo lễ thái quá lâu ngày cũng
mất. Cho nên nói: muốn thấy vệt tích của thánh nhân ắt phải căn cứ vào cái gì rõ
ràng tức là các vua sau vậy… Bỏ các vua sau mà chỉ nói đến những việc thuộc về
thượng cổ, cũng ví như bỏ vua của mình để thờ vua của người khác vậy”.
Ghi chép
tóm lược một số các sự kiện xảy ra trong thời Xuân Thu và thời Chiến quốc là thời
Khổng Tử và thời của lớp đệ tử đầu tiên của ông, chúng ta thấy một số điểm như
sau:
Thứ nhất
là Khổng Tử hoàn toàn thất bại trong tham vọng phục hồi chế độ Tây Chu mà ông
diễn giải là nhắm tới mục đích Bình thiên hạ.
Thứ hai
là việc giáo dục nhằm đào tạo những nguời tài để ra làm quan giúp nước thì cũng
thất bại, trong đám môn đệ được nói là có tới bảy mươi hai người đạt đến trình độ
làm Người Hiền thì chỉ có ít người ra làm quan như Nhiễm Cầu, Tử Lộ, Tử Hoa,
Nguyên Tư. Ngay bản thân của Khổng Tử cũng chỉ được vua Lỗ dùng trong một thời
gian ngắn với chức Á Tướng Quốc (Phó Thủ Tướng).
Thứ Ba
là Khổng Nho ngay từ cội rễ đã có 3 khuyết điểm là kỳ thị chủng tộc, kỳ thị
giai cấp, kỳ thị nam nữ. Chính vì các khuyết điểm này đã di hại cho đại chúng
Trung Quốc vì họ đã bị dìm trong nhiều hủ tục; các quan niệm sai lầm ấy trở thành
một tập quán ăn sâu trong sinh hoạt của dân chúng. Từ các khuyết điểm này đã
khiến xã hội Trung Quốc khó có thể gia nhập vào sinh hoạt tiến bộ chung của toàn
thể nhân loại.
Tác hại
của Khổng Nho cho tới bây giờ ở Trung Quốc vẫn đang là những vấn đề rắc rối,
nan giải về các mặt chủng tộc, giai cấp và xã hội.
Ngô Đình Vận
February 19, 2012
No comments:
Post a Comment