Khổng
Tử nói: “Ta chỉ thuật lại chứ không sáng
tác, tin tưởng và yêu thích cổ xưa, ta nghĩ ta giống như Lão Bành vậy”, Lão
Bành được Chu Hi chú thích là một vị quan lớn đời nhà Thương thích sưu tầm chuyện
cổ.
Chính
khách Khổng Tử đã mưu mẹo nói như thế nhằm giảm các sự thắc mắc của đám học
trò, của những kẻ cùng thời với ông về những điều ông kể từ thời Nghiêu, Thuấn
cách xa thời đại Xuân Thu trên 2500 năm. Nghiêu, Thuấn (Yao, Shun) là hai thời
đại được xếp vào loại nửa Huyền sử, nửa Lịch sử.
Cái
chữ “thuật lại” được các tác giả dịch
Luận Ngữ sang Anh Ngữ dùng khác nhau; chẳng hạn Athur Waley dịch là “Transmitter”; Leonard A. Lyall thì dùng
chữ “A teller” và chú thích rằng “of old P’eng we should be glad to know
more, but the rest is silence”.
Khổng
Tử giao hẹn là chỉ “thuật lại” chuyện
cổ, nhưng muốn kể lại một chuyện đã qua thì phải nghe được bằng lời truyền khẩu
hoặc đọc qua sách sử hay sờ mó được các vật thể của người xưa lưu lại. Do đó Khổng
Tử đã không ngần ngại dựa vào một số truyền thuyết rồi “vẽ rắn thêm chân” dùng những chuyện ấy để dạy học trò. Sách Luận
Ngữ rất nhiều chỗ ghi lại chuyện Khổng Tử nói về vua Thuấn thế này, vua Nghiêu
thế kia khiến ngay cả học trò của ông cũng ngờ vực, thắc mắc.
Theo
nhiều sách Khổng Tử năm 28 tuổi (khoảng 518 trước Công Nguyên) đã nổi tiếng là
người học rộng, biết nhiều. Ông còn thu nhận hàng loạt học trò nữa; cũng năm
này ông được vua Lỗ cấp xe ngựa, tiền bạc, đầy tớ để tới Lạc Ấp kinh đô cũ của
nhà Chu mà nghiên cứu vế văn hóa, chính trị, học thuật cổ. Theo Luận Ngữ thiên
Bát Dật trang 63 do Nguyễn Hiến Lê dịch có đoạn rằng “Khổng Tử vào Thái Miếu, thấy việc gì cũng hỏi. Có kẻ bảo: - Ai bảo con
người dất Trâu (quê hương Khổng Tử ở nước Lỗ) ấy biết Lễ; Nếu biết thì sao vào
Thái Miếu thấy gì cũng hỏi. Khổng Tử hay được bảo: - Như vậy là Lễ đấy.”
Cũng
trong dịp này, Khổng Tử đã gặp Lão Tử để hỏi về Lễ. Lão Tử đã can Khổng Tử bớt
hăng đi; sách Lịch Sử Triết Học Đông Phương của Nguyễn Đăng Thục dẫn Sử Ký có
đoạn viết về lời khuyên của Lão Tử đại ý: “Những
điều ông nói thì người và xương đều nát cả rồi chỉ còn lời nói thôi… Người hãy
bỏ cái khí sắc kiêu ngạo cùng lòng ham muốn của người đi…” Khổng Tử tới
kinh đô cũ của nhà Tây Chu cách thời Khổng Tử khoảng trên 500 năm mà Lão Tử lại
bảo là các chuyện cũ chỉ còn truyền thuyết thì các chuyện về đời Nghiêu, Thuấn
xa xưa lúc sinh hoạt còn là bộ lạc thì những chuyện cũ đâu còn gì nữa.
Về
việc học bằng cách đọc sách thời Xuân Thu theo các tài liệu lịch sử như Tả Truyện,
Sử Ký, History of China from Wikipedia, Shang Hanasty, Xia Dynasty… chúng ta có
được các sự kiện tóm tắt như sau: Sách cổ trước thời Xuân Thu thì đã có một số
gọi là Lục Nghệ gồm: Thi, Thư, Lễ, Nhạc… sách Lịch Sử Triết Học Đông Phương
trang 222 trích lại: “Quốc Ngữ nói về vua
nước Sở, Thái Tử Sở Trang Vương là Thái Tử đã được học bằng sách Thi, Thư, Lễ,
Nhạc, Xuân Thu (Sử của từng nước đều dược gọi là Xuân Thu). Như thế Khổng Tử chỉ
là người đầu tiên đem Lục Nghệ ra ngoài cung đình dạy cho thường dân.”
Trở
lại việc Khổng Tử nói chỉ “thuật lại chuyện
cổ” nhưng điều mâu thuẩn nhứt là trong sách Trung Dung đời Chiến Quốc được
coi là của Tử Tư lại có câu ghi rằng “Tổ
Thuật Nghiêu Thuấn” có nghĩa là kể lại chuyện Nghiêu Thuấn như bậc tổ của
mình. Từ sự kiện này một số các nhà nghiên cứu Khổng Học cận đại gồm cả Đông
Phương và Tây Phương cho rằng Khổng Tử đã chế ra Ngu Thư tức là Kinh Thư vào đời
Thuấn gồm 5 thiên kể chuyện chính sự, sinh hoạt của hai triều Đường Nghiêu và
Ngu Thuấn.
Về
vụ Ngu Thư theo các sách sử mà chúng ta đã tham khảo như được liệt kê ở trên
thì thấy rằng Ngu Thư là sách giả vì theo sử liệu chữ viết chỉ dược sáng tạo
vào đời nhà Thương (1600-1046 TCN). Loại chữ được gọi là Giáp Cốt Văn được tìm
thấy đầu tiên ở An Dương thuộc Tỉnh Hà Nam nước Trung Hoa; chữ được khắc trên
mai rùa gọi là Giáp và trên xương thú gọi là Cốt; cũng vào đời nhà Thương đã có
người viết một số sách là Hữu Tướng Y Doãn.
Chuyện
làm “hàng giả văn hóa” trong kho tàng
học thuật Trung Hoa thật sự đã được Trang Tử đề cập tới từ thời Chiến Quốc
(476-221 TCN); để hiểu rõ hơn về việc bịa đặt sách cổ chúng ta thấy được ý kiến
của Hồ Thích được dẫn trong sách Trung Quốc Triết Học Sử Đại Cương do Huỳnh
Minh Đức dịch ở các trang 46, 47 như sau: “Đọc
sách xưa, ta nên biết lý do vì sao có mọi thứ sách ngụy tác. Thứ nhất, có một số
người chủ trương lại e sợ tự mình không có uy tín, không đủ tin cậy cho nên thường
mượn tên cổ nhân, Trang Tử gọi là Ngu Ngôn tức chỉ vào chủ trương đó vậy. Khang
Hữu Vi rất có lý khi gọi chủ trương đó là Thác Cổ Cải Chế.
Cổ nhân mỗi khi nói gì thường xưng
Nghiêu Thuấn, đó chỉ vì niên đại của Nghiêu Thuán quá xa xưa, nên chúng ta có đủ
tự do lấy chế độ lý tưởng của chúng ta mà đẩy vào thời đại Nghiêu Thuấn. Tức
như sách Hoàng Đế Nội Kinh giả thác của Hoàng Đế, sách Chu Bi Toán Kinh giả
thác của Chu Công. Đó là một chứng minh. Hàn Phi Tử nói rất đúng: - Khổng Tử, Mặc
Tử cầu đạo Nghiêu Thuấn, nhi thủ xá bất đồng giai tự vị chân Nghiêu Thuấn bất
phục sinh, tương thùy sử định Nho, Mặc thành hồ. Có nghĩa là: - Khổng Tử, Mặc Tử
nói Nghiêu, Thuấn mà chỗ giữ lại, chỗ bỏ đi không giống nhau và tự cho là mình
nói đúng Nghiêu, Thuấn. Nghiêu, Thuấn không sống lại biết ai quyết định xem
Nho, Mặc đằng nào thật.
Thứ hai: một số người vì tiền, nên
cố ý ngụy tác cổ thư. Thử xét đời Hán ra lệnh sưu tầm sách còn sót lại và cac
Vương gia, Quý tộc cạnh tranh tìm các sách đó ta biết ngay rằng thời bấy giờ
làm sách giả có thể kiếm được nhiều tiền. Vậy làm sach giả và làm đổ cổ giả đều
có tâm trạng như nhau; họ chỉ nghĩ đến tiền, cho nên cố gắng ngụy tác nhiều chừng
nào càng có tiền nhiều chừng đấy.”
Trở
lại việc bịa sử về Nghiêu, Thuấn; có thuyết nói rằng cái món “hàng giả Ngu Thư” không phải do Khổng Tử
làm ra mà do một nho sĩ đời Hán thực hiện. Chúng ta có thể chấp nhận rằng: Khổng
Tử không viết Ngu Thư cũng không sao cả nhưng chuyện Khổng Tử nói rất nhiều về
Nghiêu, Thuấn, Văn Vương, Võ Vương, Chu Công thì được ghi lại đầy dẫy trong Luận
Ngữ thì làm sao các đệ tử Khổng Nho tranh cãi cho nổi.
Mặt
khác, chúng ta có thể nhận thấy cả một “sự
nghiệp bịa dặt vĩ đại” của Khổng Tử xuyên qua các lời lẽ của ông đã dạy dỗ
đệ tử nhằm giải thích về Thi, Thư, Lễ, Nhạc… nhưng mục tiêu của ông đều nhắm tới
chính trị là muốn khôi phục nhà Chu. Để chứng minh về điều này chúng ta có thể
dẫn vài chuyện tiêu biểu:
Thứ
nhất, Khổng Tử hết lời khen ngợi Nghiêu, Thuấn; Luận Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch
ở các trang 147, 148 như sau: “Khổng Tử
nói: Vòi vọi thay, ông Thuấn và ông Vũ được thiên hạ (làm vua) mà chẳng lấy làm
vui (chẳng hưởng vinh hoa phú quý). Khổng Tử nói; - Lớn thay sự nghiệp làm vua
của ông Nghiêu, ông Thuấn. Vòi vọi thay, chỉ có trời là vĩ đại và chỉ có vua
Nghiêu theo được trời. Lồng lộng thay dân chúng tìm được lời nào để khen cho
đúng (đức nghiệp) của ông. Vòi vọi thay sự thành công của ông. Rực rỡ thay, Lễ,
Nhạc và chế dộ của ông. Ông Thuấn có năm hiền thần mà thiên hạ thịnh trị…”
Trong
sách Luận Ngữ còn có cả thiên Nghiêu viết: “Khi
nhường ngôi cho ông Thuấn vua Nghiêu bảo: - Hỡi ông Thuấn, mệnh trời tuần hoàn,
nay ngôi vua về ông; ông nên thành thực giữ đạo trung chính, nếu dân trong bốn
bể khốn cùng, thì lộc trời (ban cho ông) sẽ mất hẳn đấy; về sau vua Thuấn lại
truyền những lời đó cho ông Vũ.”
Cũng
theo Luận Ngữ trang 118 ghi rằng: “Khổng
Tử nói: - Trung dung là đức cực đẹp vậy. Từ lâu rồi người ta ít có đức đó”.
Từ
việc đề cao Trung Dung ở Luận Ngữ chúng ta còn thấy Tử Tư kể lại chuyện Khổng Tử
diễn tả vua Thuấn hiểu và dùng đạo Trung Dung được Nguyễn Hiến Lê trích dịch
trong sách Khổng Tử trang 144 như sau: “Khổng
Tử nói: - Vua Thuấn là bậc đại trí, vua Thuấn ưa hỏi, ưa xét những lời nói gần,
dấu điều xấu, biểu dương điều thiện, nắm hai đầu nối lấy cái chính giữa mà dụng
với dân vì thế mới là vua Thuấn vậy”.
Cũng
dịch đoạn này Sào Nam Phan Bội Châu trong Khổng Học Đăng đã dịch khác ở các
trang 324, 325 như sau: “Trung dung mà gọi
bằng ác, có lời đúng trung dung mà gọi bằng thiện. Vua Thuấn xét cả hai phía
đó, lời nói gì ác thời dấu lấp, lời nói gì thiện thời biểu dương (ẩn ác nhi
dương thiện) ẩn ác nghĩa là che dấu những lời xấu của người; dương thiện nghĩa
là nên tỏ những lời lành của người. Thấy những đạo lý hay ở trong lời nói lành,
tuy có hai múi, có cái chếch về phía cao, có cái chếch về phía thấp, có cái
thiên về phía tả, có cái thiên về phía hữu, vua Thuấn nắm lấy cả hai múi ấy (chấp
kỳ lưỡng đoạn) đo lường, cân nhắc, lựa cái đạo lý vừa chính chung mà thi hành mọi
việc với dân… vì hay dùng lấy đạo chung ấy mà ở với dân thế mới thành được đại
chí như vua Thuấn vậy”.
Qua
lịch sử Trung Hoa chúng ta biết rằng thời Nghiêu, Thuấn nếu có thì sinh hoạt chỉ
là những bộ tộc du mục; tình trạng xã hội của Trung Hoa chỉ có được định cư, định
canh vào thời vua thứ 19 của nhà Thương là Bàn Canh (1312-1313 TCN) sau khi dời
đô sang dất Ân ở Hà Nam và từ đó mới có tên Ân Thương.
Từ
sự kiện nêu trên chúng ta thấy Khổng Tử đã tưởng tượng ra đủ chuyện tốt đẹp để
tô vẽ về thần tượng Nghiêu, Thuấn của ông. Một điểm cần được đối chiếu ở đây là
vua Thuấn có thực sự tử tế hay không?
Theo
Wikipedia thì Trúc Thư Kỷ Niên (Zhushu, Jinian) biên niên sử của nước Ngụy viết
trên thẻ tre. Bộ sử này được chôn cùng với Ngụy Tương Vương chết năm 296 trước
Công Nguyên; tới đời Tấn Vũ Đế năm 281 Công Nguyên mới tìm thấy bộ cổ thư này.
Theo chữ viết trên thẻ tre ghi: Thuấn bắt giam Nghiêu ở Bình Dương rồi cướp
ngôi vua. Thuấn còn không cho con của Nghiêu là Đan Chu vào ngục thăm cha.
Một
chuyện khác nữa là Khổng Tử bịa đặt luôn nhạc Thiều đời vua Thuấn; chúng ta thấy
Khổng Tử khen nhạc Thiều ở sách Luận Ngữ trang 70 do Nguyễn Hiến Lê dịch như sau:
“Khổng Tử khen nhạc Thiều cực hay lại cực
tốt lành, nhạc Võ cực hay nhưng chưa cực tốt lành”. Cũng vẫn theo Luận Ngữ
trang 126 ghi: “Khổng Tử khi ở Tề, nghe
nhạc Thiều, ba tháng liền không biết mùi thịt, bảo: Không ngờ nhạc đó tác dộng
tới ta đến như vậy. Có người dịch không ngờ vua Thuấn làm được khúc nhạc tận
thiện, tận mỹ như vậy”.
Tuy
nhiên theo một số sử sách Trung Hoa thì nhạc đời nhà Chu sau Nghiêu, Thuấn cả
2500 năm cũng bị mai một. Các vua nhà Chu ở thời Xuân Thu chỉ ở ngôi vua làm
vì, phải dựa vào một trong Ngũ Bá che chở. Có vua Đông Chu không còn dất đai
nên phải ở nhờ chư hầu đến nổi ngay lễ lên ngôi cũng không làm nổi. Các quan nhạc
sư nhà Chu không còn chỗ dung thân phải di cư qua các nước chư hầu, đi tìm nghề
khác để sinh sống, kẻ nào còn yêu thích âm nhạc thì phải pha trộn với nhạc của
các nước lân bang nên nhạc nhà Chu cũng trở thành “tam sao thất bổn” mai một chẳng còn lại được bao nhiêu. Chúng ta tự
hỏi Khổng Tử dùng phép nào để đi ngược quá khứ tới 2500 năm trước để biết được
thế nào là cái hay, cái đẹp của đời Ngu Thuấn.
Nhiều
sách sử viết về Ngu Thư nhưng đối chiếu thì có rất nhiều điểm khác nhau, có khi
mâu thuẫn nữa. Theo Hán Thư, phần Nghệ Văn Chí đoạn số 10 có ghi rằng: “Cuối đời Hán Vũ Đế, Lỗ Cung Vương trong khi
phá nhà Khổng Tử để xây rộng nhà mình ra, tìm thấy sách cổ Thượng Thư, Luận Ngữ,
Lễ Ký, Hiếu Kinh đều là chữ cổ. Cung Vương bước vào trong nhà nghe thấy tiếng
đàn nhạc, chiêng, trống. Sợ hãi ông ra lệnh thôi không phá hủy. Khổng An Quốc
dòng dõi Khổng Tử được giữ tất cả các sách đó”. Khổng Học Đăng trang 260 do Phan Bội Châu viết
đã trích dẫn Ngu Thư, giải thích về ngôn từ dùng trong thiên “Nghiêu Điển”. Sách truyện Khổng Tử của
Đoàn Trung Còn ở trang 81 viết: “Kinh Thư
tức là bộ truyện, bộ sử chép các lời Điển, Mô, Huấn, Cáo, Thệ Mạng của vua
thánh, tôi hiền khuyên răn nhau, từ đời vua Nghiêu, vua Thuấn tới đời Đông Châu
của Khổng Tử”.
Sách
Lịch Sử Triết Học Đông Phương của Nguyễn Đăng Thục tập 1, trang 223 trích Trang
Tử có câu giải thích “… Thi để dạy về
Chí, Thư để dạy về Việc, Lễ để dạy về Đức Hạnh, Nhạc để dạy về Hòa, Dich để dạy
về Âm Dương, Xuân Thu để dạy về Danh Phận”. Cuốn Khổng Tử của Nguyễn Hiến
Lê thì viết: “Tóm lại các học giả ngay
nay cho rằng những sách đời Xuân Thu mà Khổng được đọc chỉ có ít bộ sử của một
số nước (nhất là Lỗ, có thể Chu nữa), Kinh Thi, Mươi Thiên trong Kinh Thư, một
số thiên trong Kinh Lễ (không biết những thiên nào), Kinh Nhạc và bộ sách bói tức
Kinh Dịch. Di sản đời Tây Chu để lại cho thời ông đại khái có bấy nhiêu, còn
công ông san định các kinh đó thì chưa có gì chắc chắn cả”.
Trở
lại trong suốt thời trai trẻ của Khổng Tử, ông bị ám ảnh bởi khát vọng phục
hưng chế độ nhà Chu, nhưng ông càng bôn ba, suôi ngược thì càng gặp trở ngại đến
nổi chính ông cũng chán nản. Theo Luận Ngữ thiên Thuật Nhi trang 122 có câu “Tử nói, ta đã suy lắm rồi, từ lâu không còn
mộng thấy ông Chu Công”.
Sau
khi Khổng Tử mất, đám đệ tử của ông chia làm tám phái và phái nào cũng tự xưng
là chính thống; tuy nhiên, theo Hồ Thích thì nhận xét rằng: “Nói về học thuyết chính truyền của Khổng
Môn, chúng ta có thể xem Tử Hạ, Tử Du, Tăng Tử như những người đại biểu”.
Thực
ra, Khổng Nho đã bị “ế hàng” từ đời
Xuân Thu qua đời Chiến Quốc, về việc này LSTHPĐ trang 282 chép lại nhận định của
Hàn Phi Tử: “… Ngày nay có kẻ khen đạo của
Ngiêu, Thuấn, Thang, Vũ mà đem áp dụng vào đời nay tất sẽ làm cho các bậc thánh
cận đại phải buồn cười. Bởi thế mà các bậc thánh không mong thực hành cổ tục,
không bắt chước cái gì được coi như đúng mãi mãi. Họ luôn luận bàn thế sự và sửa
soạn cho hợp thời”.
Cũng
chính vì Khổng Học “ế hàng” trong thời
Chiến Quốc giữa trào lưu : ”Bách Gia
Tranh Minh” đến nổi Mạnh Tử đã có thái dộ cực đoan đưa ra ý kiến “Độc Tài, Nho Trị”. Sách LSTHPĐ tập 2
trang 78 ghi lới Mạnh Tử: “Cái đạo của họ
Dương, họ Mặc chẳng diệt tắt đi, thì cái đạo ông Khổng chẳng rõ rệt, ấy chỉ vì
những tà thuyết làm mê hoặc dân, dầy lấp mất cả nhân nghĩa. Đường Nhân Nghĩa bị
dầy lấp thì là giống loài thú ăn thịt người, mà loài cũng sắp ăn thịt lẫn nhau”.
Các
học thuyết “Vị Ngã” của Dương Chu, “Khiêm Ái” của Mặc Định chỉ vì phản bác
không chịu hùa theo Khổng Nho mà bị Mạnh Tử gọi là tà thuyết rồi mạt sát thậm tệ.
Từ nhận xét độc đoán của người chủ trương “Tính
Bản Thiện” là Mạnh Tử được cổ xúy vào đời Hán Vũ Đế với Đổng Trọng Thư dâng
kế sách: “Bãi bỏ Bách Gia, độc tôn Nho Học”
vào năm 116 trước Công Nguyên. Nối tiếp là các chế độ Quân Chủ Phong Kiến của
Trung Hoa từ Tống, Minh, Thanh đều triệt để khai thác , áp dụng “Nho Học Độc Tôn” nhằm bảo vệ uy quyền của
họ mà bịt mồn tất cả thiên hạ.
Từ
nguyên do bịa đặt khởi đầu từ Khổng Tử, sau này các đệ tử Khổng Nho đua nhau “tống vào miệng” các vị tiền bối của họ
đủ thứ linh tinh, nào là Khổng Tử chủ trương Tam Đại lấy ba dời Nghiêu, Thuấn ,
Chu dể làm mẫu mực đạo đức mà trị thiên hạ, nào là Tam Đại nói về tư tưởng
Nhân, Trí, Dũng, nào là Tam Tài gồm Trời, Đất, Người. Tóm lại Khổng Tử bịa chuyện
để dạy học trò, đệ tử bịa chuyện Khổng Tử đã trở thành cái “lề thói” kéo dài suốt đời này tới đời kia khiến hậu thế không còn
biết “mặt mũi” của Khổng Nho thực hư ra
sao nữa.
Khi
nghiên cứu về một học thuyết người ta cần để ý tới cái kết quả của nó lợi, hại
thế nào. Ở đây chúng ta ghi lại nhận định của Hồ Thích trong Trung Quốc Triết Học
Sử trang 230: “Tôi nghĩ rằng Khổng Tử luận
trí thức, chú trọng Nhất Dĩ Quán Chi, chú trọng suy luận, thật ra rất hay. Chỉ
đáng tiếc là Ngài đem chữ Xem như một thứ học vấn mà thôi; sau này, mấy ngàn
năm giáo dục tại Trung Quốc bị ảnh hưởng học thuyết trên mà đào tạo toàn những
chàng Thư Sinh mục nát. Đó chính là điểm tệ hại của Ngài vậy”.
Ngô Đình Vận
April
10, 2012
No comments:
Post a Comment