Chương
IV
Cách Soạn Sử Gượng Ép, Dối Trá Dưới Triều
Lê Thánh Tôn
Một
Nước được dựng lên phải có hai yếu tố chính là Dân và Đất thì Vua mới có cái thế
để cầm quyền.
Nói
tới Dân, theo truyền thuyết được ghi lại trong nhiều truyện của Lĩnh Nam Chích
Quái (soạn khoảng 1370-1400) thì chúng ta có được một số sự kịện như sau:
Dân
dưới thời Kinh Dương Vương thuộc nước Xích Qủy thường khổ vì nạn yêu quái. Con
yêu có gốc từ cây Chiên Đàn, cây cổ thụ này chết hóa thành yêu nên gọi là Mộc
Tinh còn mang tên là Xương Cuồng.
Kinh
Dương Vương thương dân gặp nạn nên đã dùng thần thuật thắng được Mộc Tinh.
Nước
Xích Quỷ là phương Nam đất đai rộng, hẹp thế nào không được truyền rõ.
Tiếp
đó, con của Kinh Dương Vương là Sùng Lãm nối ngôi vua tức là Lạc Long Quân. Dân
chúng mỗi khi hoạn nạn thì kêu cầu vua cứu giúp. Lạc long Quân còn mang tên là
Đào Kinh Long thấy dân khổ vì Ngư Tinh và Hồ Tinh nên đã trị cả hai con yêu độc
địa này.
Tới
thời Hùng Vương thứ nhất, sách Lĩnh Nam Chích Quái ghi rõ rằng “…Âu Cơ cùng
với 50 người con trai ở tại Phong Châu (bây giờ là huyện Bạch Hạc)tự suy tôn
ngưòi hùng trưởng lên làm vua hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn Lang”.
Vua
thấy dân đánh cá thường bị thuồng luồng cắn hại nên mới dạy dân xâm mình để thuồng
luồng tưởng là đồng loại nên không còn cắn nữa.
Truyền
thuyết được ghi vào Dã Sử (LNCQ) cho biết sinh hoạt của dân Bách Việt rằng “Ban
đầu, quốc dân ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu
nằm; lấy gạo ngâm làm rượu , lấy cây quang lang, cây soan đồng làm bánh; lấy cầm
thú, cá tôm làm nước mắn, lấy rễ gừng làm muối; lấy dao cầy, lấy nước cấy, đất
trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm; gác cây làm nhà để tránh nạn hổ
hang; cắt ngắn đầu tóc để tiện vào rừng núi, con đẻ ra lót lá chuối cho nằm;
nhà có người chết thì giã gạo để cho hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp; trai
gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu, dê làm lễ
thành hôn; đem cơm nếp vào trong phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới
thương thông; lúc bấy giờ chưa có trầu cau nên phải thế. Bách Nam là thủy tổ
Bách Việt vậy”.
Nước
Văn Lang có bờ cõi rộng lớn “Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động
Đình Hồ, Nam đến nước Hồ Tôn Tinh (Chiêm Thành), chia nước làm 15 bộ là: Giao
Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phú Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế
Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam. Quế Lâm, Tượng Quận…”.
Tên
cũ của các Bộ ghi trong Lĩnh Nam Chích Quái có vài bộ khác với tên mà ông Ngô
Sĩ Liên đưa vào Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Sau này, qua sách Địa Dư Chí của Nguyễn
Trãi và vài tài liệu viết trong Việt Sử Thông Giám Cương Mục thì người ta mới
biết thêm một số chi tiết như sau:
1) Giao
Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình).
2)
Chu Diên (SơnTây).
3)
Phú Lộc (cũng thuộc Sơn Tây).
4)
Vũ Ninh (Bắc Ninh).
5)
Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị).
6)
Ninh Hải (Quảng Yên).
7)
Dương Tuyền (Hải Dương).
8) Lục
Hải (Lạng Sơn).
9)
Vũ Định (Thái Nguyên, Cao Bằng).
10)
Hoài Hoan (Nghệ An).
11)
Cửu Chân (Thanh Hóa).
12)
Tân Hưng (Hưng Hóa, Tuyên Quang).
13)
Cửu Đức (Hà Tĩnh).
14)
Văn Lang là kinh đô ở Phong Châu (Vĩnh Yên).
15)
Bình Văn (không rõ ở đâu).
Vấn
đề bờ cõi được kể ở phần trên rất mơ hồ về hai mặt phía Tây và phía Bắc; cũng
vì thế mà sau này có thuyết cho rằng nước Văn Lang bao gồm một phần đất rộng ở
miền Nam nước Trung Hoa.
Ngoài
ra tên vài Bộ cũ quen thuộc như Tượng Quận, Nhật Nam, Quế Lâm ghi trong Lĩnh
Nam Chích Quái không biết vì lý do gì mà sử thần Ngô Sĩ Liên đã thay vào các
tên khác.
Truyền
thuyết về Vua, dân và Đất được ghi lại trong Dã Sử không hề có một chữ nào nói
tới niên kỷ cũng như đối chiếu với Bắc Sử và có lạ lùng thế nào chăng nữa thì
cũng không sao vì đây là huyền thoại, Dã Sử.
Tuy
nhiên, khi sử thần Ngô Sĩ Liên đưa Dã Sử vào phần Ngoại Kỷ mở đầu cho lịch sử
thì ông đã chắp vá với cả Bắc Sử, tiểu thuyết. Ông cũng đưa rất nhiều chi tiết
nói rõ về niên kỷ làm cho vấn đề trở thành rắc rối gây nhiều tranh luận về sau.
Điển
hình nhất cho yếu tố thời gian với các con số, sử thần Ngô Sĩ Liên đã viết rằng
“Trở lên là Hồng Bàng Thị, từ Kinh Dương Vương được phong năm Nhâm Tuất cùng
với thời Đế Nghi truyền đến cuối đời Hùng Vương, ngang với Noãn Vương nhà Chu
năm thứ 57 là năm Qúy Mão thì hết, tất cả 2622 năm” (dịch giả đời sau chú
thích là từ năm 2879 tới 258 trước Công Nguyên).
Việc
chắp vá Ngoại Kỷ hoàn tất năm 1479, được các triều đại Hậu Lê đương nhiên thừa
nhận kéo dài trên 310 năm. Mãi tới đời Lê Hiển Tôn mới có Đốc Trấn Lạng Sơn Ngô
Thời Sỹ viết Việt Sử Tiêu Án vạch ra nhiều khuyết điểm của sử cũ. Các quan điểm
của ông Ngô Thời Sỹ đã được tác giả Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí là Phan Huy
Chú (1782-1840) khen ngợi rằng “Sửa chữa những chỗ sai lầm của sử cũ, bút
pháp tinh tường”.
Để
tìm hiểu phê bình Ngoại Kỷ một cách gẫy gọn, chúng ta có thể chia ra ba vấn đề
đã được ông Ngô Thời Sỹ đề cập có sai lầm là Niên Kỷ, Chính Thống và Kiêng Kỵ.
Thứ
nhất, về chuyện Niên Kỷ, ông Ngô Thời Sỹ phê bình sử cũ rằng “Họ Hồng Bàng
khởi từ năm Nhâm Tuất đến hết năm Qúy Mão, Hùng Vương mất nước, An Dương nổi
lên, đích xác thuộc về năm 57 đời vua Chu Noãn. Lại lấy con toán mà kể xem từ
khoảng đời Kinh, đời Hùng, 20 đời vua 2622 năm, nhiều ít trừ đi, bù lại, mỗi
vua được 120 tuổi. Người ta không phải là vàng đá, sao lại sống lâu được như thế?”.
Trong
một đoạn khác, ông Ngô Thời Sỹ nhận xét “Sử ghi đời Lạc Long, tại sao đến đời
Hùng Vương lại chép sơ lược? Một loại hoang đảng nên tước hết đi, là vì sử cũ
sưu tầm chuyện cổ, thêu dệt thành văn, cốt cho đủ số đời vua.”
Thứ
hai, về chuyện chính thống, ông Ngô Thời Sỹ vạch ra rằng sử cũ đã cố tình sắp xếp
để người con theo Lạc Long Quân lên làm vua thay vì Lĩnh Nam Chích Quái kể rằng
người con trưởng theo Âu Cơ lên núi làm vua. Ông Ngô Thời Sỹ viết “Nhà làm sử
muốn lấy người theo cha làm chính thống nên đổi lời văn…”. Tiếp đó ông cũng
viết rõ “Những người con theo mẹ ai cũng phải lệ thuộc Long Quân, há có lẽ tất
cả những người theo cha mới có thể làm vua chúa, mà những người theo mẹ chỉ có
thể làm man mọi ư?”.
Từ
chuyện Chính Thống này, chúng ta còn nhận ra các sai lầm khác của ông Ngô Sĩ
Liên là thời thượng cổ dân Việt cũng như nhiều bộ tộc khác sống theo mẫu hệ;
hơn nữa dân Việt Cổ không kỳ thị nam nữ, điều này thấy được qua truyền thuyết
Âu Cơ và Lạc Long Quân chia con đồng đều, cũng như tục lệ khai trống đồng do nữ
giới dùng trâm cài tóc thả xuống mặt trống.
Việc
đổi từ mẫu hệ qua phụ hệ mà ông Ngô Sĩ Liên sửa khi viết Ngoại Kỷ là do quan niệm
của người phương Bắc vào đời sau thời thượng cổ đặt ra mà các Nhà Nho Đại Việt
sau này bắt chước và coi như khuôn vàng thước ngọc.
Thứ
ba, về chuyện Kiêng Kỵ, theo gốc Dã Sử (LNCQ) kể rằng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ
là vợ Đế Lai nhưng ông Ngô Sĩ Liên lại sửa ra Âu Cơ là con Đế Lai.
Điều
kỳ quái hơn nữa mà người đọc nhận được là ông Sĩ Liên đang nói về thời Thượng Cổ
khi chưa có Nho Giáo nhưng ông đã lấy ngay chuyện ông vừa sửa để xiển dương cho
Nho Giáo qua lời bàn luận theo Tống Nho dựa vào Thông Giám Ngoại Kỷ của Tư Mã
Quang để bàn rằng “Đế Lai là con Đế Nghi, cứ theo sự ghi chép ấy thì Kinh
Dương Vương là em ruột Đế Nghi, thế mà kết hôn với nhau, có lẽ vì đời ấy còn
hoang sơ, lễ nhạc chưa đặt mà như thế chăng?”.
Cũng
vì có sự sửa đổi như nói trên nên ông Ngô Thời Sỹ đã chỉ trích rất mạnh bạo rằng
“Sử kiêng không nói việc ấy ra, chỉ nói là lấy con gái Đế Lai là vì xấu hổ
việc chim chuột trai gái không khác gì cầm thú, đều là việc không nên nói ra,
không bằng bỏ đi thì hơn”.
Qua
câu trên chúng ta thấy ông Ngô Thời Sỹ rất khôn ngoan khi dùng lối viết nửa gợi
ý, nửa ám chỉ khiến người đọc liên tưởng ngay tới vụ án Vườn Vải (Lệ Chi Viên)
vào năm 1442. Vụ án thảm khốc này đã gây cho một số người bị chết oan uổng
trong đó có Khai Quốc Công Thần Nguyễn Trãi khoảng 63 tuổi và vợ bé của ông là
Lễ Nghi Học Sĩ Nguyễn Thị Lộ trên 40 tuổi.
Ông
Ngô Thời Sỹ đã chỉ đường cho đời sau bằng mấy chữ mà ông nhấn mạnh “Sử
kiêng…là vì xấu hổ…” khiến người ta hiểu ngay rằng triều Lê Thánh Tôn đã
kiêng và xấu hổ vì có phụ hoàng là Lê Thái Tôn gần 20 tuổi đã chết đột ngột vào
ngày mùng 4 tháng 8 năm Nhâm Tuất
(1442).
Cái
chết bất ngờ này đã là nguyên cớ gây ra vụ án Vườn Vải với đầy uẩn khúc ở chốn
“Thâm Cung Bí Sử” của nhà Hậu Lê.
Sau
khi ông Ngô Thời Sỹ chỉ trích Ngoại Kỷ khoảng 50 năm thí lại có nhóm sử thần
nhà Nguyễn do Tổng Tài Phan Thanh Giản cầm đầu chê trách Ngoại Kỷ.
Theo
một số tài liệu được in trong cuốn Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam của tác giả Phạm
Cao Dương, người đọc thấy Tấu Nghị của nhóm sử thần đệ lên vua Tự Đức có đoạn
viết “Nay vâng tra cứu sử cũ thì đời họ Hồng Bàng có những tên Kinh Dương
Vương và Lạc Long Quân. Nhưng đó lại thuộc đời thượng cổ, vẫn còn hổn độn mơ hồ,
tác giả do những chỗ hư không bầy đặt ra rồi lại vì sợ không đủ cho người ta
tin, nên phải dựa vào truyện Liễu Nghị đời Đường của nhà viết tiểu thuyết để
làm chứng cớ. Cứ như Kinh Dương Vương thuộc nước Tần, Động Đình thuộc nước Sở,
có liên quan gì với nước ta đâu?”.
Nhóm
sử thần nhà Nguyễn tấu nghị xin vua Tự Đức “lấy Hùng Vương làm đầu để làm
sáng tỏ nguồn gốc của chính thống trong Việt Sử” (đưa vào phần chính là
Cương). “Còn những sự kiện liên quan đến Kinh Dương và Lạc Long thì sẽ lấy
riêng làm truyền văn ghi vào phía dưới” (đưa vào phần phụ là Mục).
Vua
Tự Đức sau đó ra dụ chỉ đồng ý với tấu nghị của các sử thần vì thế bộ Khâm Định
Việt Sử Thông Giám Cương Mục đã mở đầu từ đời Hùng Vương và coi các chuyện Kinh
Dương, Lạc long là chuyện phụ.
Từ sự
phê bình của nhóm sử thần nhà Nguyễn, chúng ta lại thấy được một chuyện quái dị
khác ở trong Ngoại Kỷ, đó là việc ông Ngô Sĩ Liên đưa truyện Liễu Nghị đời
Đưòng niên hiệu Nghi Phượng (676-678) lên khoảng trên 2800 năm trước Công
Nguyên, ghép Long Nữ của tiểu thuyết đời Đường Cao Tông thành Long Nữ đời Việt
cổ cũng do ông phóng tác từ Dã Sử.
Ở
đây, chúng ta lại thấy một sự sai lệch khác không thích ứng với thời gian, đó
là việc con gái Thần Long ở thời Việt cổ viết thư nhờ Liễu Nghị tâu với cha về
việc bị chồng bạc đãi.
Chi
tiết viết thư qủa là một gượng ép vì Long Nữ ở thời đại Đồ Đá dùng chữ
viết kiểu gì và viết bằng cách nào? Không lẽ Long Nữ viết bằng lối chữ Nòng Nọc
theo truyền thuyết hoặc dùng lối thắt nút của thời Hùng Vương?
Còn
Long Nữ viết thư bằng chữ Hán thì chữ Hán chỉ có từ khoảng thế kỷ 16 đến 11 trước
Công Nguyên dưới triều đại nhà Thương và Chu. Ngành khảo cổ cũng chỉ đào được
vài di vật liên hệ tới chữ là Giáp Cốt Văn và Chung Đỉnh Văn mà thôi.
Từ
các sử liệu được trích dẫn nói trên, chúng ta thấy phần đông các nhà viết sử đời
sau đều quy lỗi cho sử thần Ngô Sĩ Liên đã gây ra những lầm lẫn và dối trá đáng
tiếc này. Cũng có thể ông Ngô Thời Sỹ rồi tới thời ông Phan Thanh Giản đều sống
dưới các triều đại Quân Chủ nên đã không dám đề cập tới người chủ xướng việc viết
lại sử là vua Lê Thánh Tôn, một ông vua được các nhà Nho nước ta coi là vị
Thánh của Nho Giáo Đại Việt.
Chuyện
hiển nhiên là ông Ngô Sĩ Liên có chắp vá lệch lạc về Ngoại Sử thế nào nhưng khi
vua Lê Thánh Tôn thừa nhận Đại Việt Sử Ký Toàn Thư là Quốc Sử thì chính nhà vua
phải chịu trách nhiệm.
Từ sự
sửa Dã Sử đầy lầm lỗi và dối trá để trở thành Ngoại Sử nói trên, chúng ta còn
tìm được nhiều sự sai lầm khác nữa của Đại Việt Sử Ký qua các phần biên soạn dưới
triều đại Lê Thánh Tôn.
Về
cá nhân một sử thần tức là kẻ được nhà vua sai soạn sử, ông Ngô Sĩ Liên không
thể tự chuyên và lạm quyền tới độ lấy Dã Sử thêm bớt để đưa vào Lịch Sử, còn lấy
cả hai bộ sử của các bậc tiền bối là Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên để soạn sách mới.
Ông
Ngô Sĩ Liên đã làm các việc táo bạo ấy mà cả triều đình gồm các Đại Thần Văn,
Võ, còn có cả Tao Đàn với Nhị Thập Bát Tú do nhà vua làm Nguyên Soái mà không
có ai dám lên tiếng chỉ trích; ông Ngô Sĩ Liên cũng không bị bất cứ ai gièm pha
là Khi Quân, Phạm Thượng là những trọng tội dưới thời Phong Kiến.
Về
phản ứng của triều đình thời Lê Thánh Tôn đối với Ngoại Kỷ, sử quan Đặng Quốc
Lang đã đưa ra ý kiến trong tấu nghị năm 1856 đệ lên vua Tự Đức rằng “Đương
buổi ấy (triều Lê Thánh Tôn), các quan đình thần chuyên về Nho Học rất uy nghi
đông đảo, nhưng không có một người nào lên tiếng chê việc đó là không hợp lý…”
Từ sự
im lặng đồng nhất mang tính cách tuyệt đại đa số khuất phục này thì chúng ta có
thể nghĩ rằng chính vua Lê Thánh Tôn là Chủ Sự của việc viết lại Quốc Sử nếu
không muốn nói là Chủ Biên còn ông Ngô Sĩ Liên chỉ là kẻ đầy tớ ngoan ngoãn thừa
hành.
Để dẫn
chứng cho lập luận này chúng ta có thể ghi nhận và phân tích một số sự kiện
tiêu biểu liên quan tới vấn đề ghi chép và soạn sử dưới triều Lê Thánh Tôn như
sau:
Thứ
nhất là việc ghi chép của sử quan ở Hàn Lâm Viện cho đời sau có tài liệu để soạn
sử. Theo Bản Kỷ Thực Lục viết có đoạn ghi rằng cuối năm Quang Thuận thứ 8
(1467), vua Lê Thánh Tôn đã sai Nội quan tới Hàn Lâm Viện dụ riêng sử quan Lê
Nghĩa mà nói “Vua muốn xem ghi chép hàng ngày từ năm Quang Thuận thứ nhất
(1460) đến năm Quang Thuận thứ 8 (1468).”
“Nghĩa
trả lời: Vua mà xem Quốc Sử, hẳn không phải là việc hay. Những việc làm của Đường
Thái Tông và Phòng Huyền Linh đã bị đời sau chê bai đấy!”
“Nội
quan nói: vua bảo là xem những ghi chép hàng ngày để biết trước đây có lỗi gì
còn có thể sửa được.”
“Nghĩa
nói: chỉ cần bệ hạ gắng làm điều hay thôi, việc gì phải xem quốc sử.”
“Nội
quan dụ bảo nhiều lần, Nghĩa nói: Thánh Chúa nếu biết sửa bỏ lỗi lầm thì đó là
phúc lớn vô hạn của xã tắc, thế dẫu không khuyên can mà cũng là khuyên can. Rồi
dâng những ghi chép hằng ngày lên. Vua xem xong trả lại cho Sử Viện”.
Ở
đây chúng ta thấy rõ vua Lê Thánh Tôn đã phá lệ đòi xem trước các ghi chép như
thế thì sử quan làm sao còn tiếp tục ghi chép khách quan, vô tư được nữa.
Thứ
hai, cá nhân sử thần Ngô Sĩ Liên thì ông đã bị vua Lê Thánh Tôn ra dụ kể tội
vào năm 1461 khi ông làm việc ở Đô Ngự Sử Đài. Trong dụ này nhà vua đã rất nặng
lời trách mắng Ngô Sĩ Liên và Nghiên Nhân Thọ rằng “Nay Lệ Đức Hầu (Nghi
Dân) mất nước về tay ta, các ngươi không biết vì ăn lộc mà theo hắn lại đi thờ
ta. Nếu không nói ra, trong lòng các ngươi không tự hổ thẹn mà chết ư? Thực là
bọn gian thần bán nước”.
Vua
Lê Thánh Tôn hạch tội các ông Liên và Thọ quá đáng vì có rất nhiều quan lại làm
việc dưới thời Nghi Dân rồi tiếp tục phục vụ dưới triều của vua, nhưng nhà vua
chỉ kể tội có hai ông này. Hơn nữa trước đây khi nhà vua còn là hoàng tử thì
ông cũng đã hưởng lộc của triều Lê Nhân Tôn nhưng sau khi Nhân Tôn bị Nghi Dân
giết thì ông lại tiếp tục hưởng lộc của Nghi Dân. Ông đâu có “hổ thẹn mà chết?”
và chẳng ai dám kết tội ông là “gian thần bán nước”.
Tiếp
đó, năm 1464, vua Lê Thánh Tôn nhân vụ biếm chức Binh Bộ Tả Thị Lang Nguyễn
Đình Mỹ ra dụ lại nhắc tới một tội khác của Ngô Sĩ Liên.
Từ
hai sự việc này, chúng ta thấy rõ ông Ngô Sĩ Liên đã lãnh hai bản án treo trong
thời gian làm sử quan với nhiều người khác trước khi được vua Lê Thánh Tôn đặc
cách sai ông viết lại lịch sử. Chuyện khó khăn nhất của ông Ngô Sĩ Liên là phải
viết về Tam Triều Bản Kỷ tức là đời Lê Thái Tổ (ông của Thánh Tôn), Lê Thái Tôn
(cha của Thánh Tôn), Lê Nhân Tôn (anh của Thánh Tôn) là ba triều xảy ra nhiều vụ
thảm sát công thần cùng những tranh chấp phe đảng đẫm máu ở chốn thâm cung của
nhà Hậu Lê.
Phần
biên soạn của ông Ngô Sĩ Liên nặng nề như thế nhưng Quốc Sử vào tháng Giêng năm
Hồng Đức thứ Mười (1479) chỉ có một dòng ghi nguyên văn “Sai sử quan tu soạn
Ngô Sĩ Liên soạn bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, 15 quyển.”
Thứ
ba là người ra lệnh ghi chép và soạn sử là vua Lê Thánh Tôn. Ông vua này có quá
nhiều truyền thuyềt, sử liệu viết khác nhau về ông nên đời sau khó lòng biết rõ
hư thực thế nào!
Sử
thần Ngô Sĩ Liên viết về đời vua Lê Thái Tôn chỉ có vài chi tiết rất ngắn là
năm Canh Thân (1440) “Tháng 6, sách phong Ngô Thị làm Tiệp Dư, được ở cung
Khánh Phương”. Năm Nhâm Tuất, Đại Bảo thứ ba (1442) chỉ có một câu là “Muà
thu, tháng 7, ngày 20, Hoàng Tử Tư Thành sinh”.
Ngược
lại, trong nhiểu sử liệu đời sau viết thì câu chuyện về Ngô Thị Tiệp Dư đã dính
liền với các sách viết về Nguyễn Trãi, viết về Thị Lộ, viết về vua Lê Thánh Tôn
vì Ngô Thị chính là mẹ của vua. Các chi tiết này không hề có trong chính sử.
Chuyện
gian truân của Ngô Thị Ngọc Dao được viết đều có các điểm chung là Ngọc Dao có
chị làm cung nữ là Ngô Thị Xuân. Ngọc Dao vào cung thăm chị, vua Lê Thái Tôn
trông thấy thích, gọi vào, sau đó cho làm cung nữ.
Năm
1440, vua phong cho Ngọc Dao chức Tiệp Dư (được xếp vào hạng thứ 14 sau nhiều
loại Phi, Tần) lúc đó Lê Thái Tôn mới trên 17 tuổi, như thế Ngọc Dao chỉ vào
khoảng trên 15 tuổi. Sau đó Ngọc Dao có mang khiến thần phi Nguyễn Thị Anh trên
16 tuổi ghen ghét. Nguyễn Thị đã đem chuyện cũ ra vu vạ cho Ngọc Dao và xúi vua
giết Tiệp Dư đi. Đại thần Nguyễn Trãi và vợ là Nguyễn Thị Lộ đã hết sức can vua
đừng phạm vào ác nghiệp là giết con khi còn là bào thai.
Sách
Việt Sử Toàn Thư của tác giả Phạm Văn Sơn kể rõ việc Nguyễn Thị vu vạ như sau “Ngô
Tiệp Dư bị cáo dính với Huệ Phi (con gái Đô Đốc Lê Ngân) về việc mời thầy Mo
làm bùa để được vua yêu, nhân thế Huệ Phi bị dáng xuống làm Tư Dung, Tiệp Dư bị
xử phát lưu; Nguyễn Trãi xui Thị Lộ lĩnh thu giam, có ý bảo toàn cho mẹ con Ngô
Thị. Thái Tôn bằng lòng giao cho nàng đem giữ Tiệp Dư ở chùa Hoa Văn. Nguyễn
Trãi thường sai người đem tiền gạo cấp dưỡng cho người đàn bà bất hạnh này. Mùa
thu, năm Đại Bảo thứ 3, Tiệp Dư sinh hoàng tử Tư Thành, Thị Lộ xui bà đem con
trốn đi”.
Từ vụ
này chúng ta thấy rằng vua Lê Thái Tôn đã chẳng đoái hoài gì tới mẹ con Ngọc
Dao; ông vua cha này còn mê mệt Nguyễn Thị Anh và các cung tần khác. Cũng có thể
vì chuyện Tư Thành không được nhìn nhận chính thức nên sử thần Ngô Sĩ Liên chỉ
viết qua loa về thân thế Ngô Thị Tiệp Dư.
Mặt
khác Đại Việt Sử Ký Thực Lục do nhóm sử quan Phạm Công Trứ soạn theo lối biên
niên tức là dựa vào các sử liệu của đời trước để lại; sách này đã kể một truyền
thuyết thần diệu qua việc cầu tự và giấc mơ của Tiệp Dư.
Sử
chép “Mẹ vua là Quang Thục Hoàng Thái Hậu Ngô Thị, người làng Đông Bàng, huyện
Yên Định, phủ Thanh Hóa. Trước kia, khi còn là Tiệp Dư, Thái Hậu đi cầu tự, mơ
thấy Thượng Đế ban cho một Tiên Đồng, thế rồi có thai (tục truyền rằng Thái Hậu
khi sắp ở cữ, nhân thử thả chợp mắt, mơ thấy mình đến chỗ Thượng Đế, Thượng Đế
sai một Tiên Đồng xuống làm con Thái Hậu, Tiên Đồng chần chừ mãi không chịu đi,
Thượng Đế giận, lấy cái hốt ngọc đánh vào trán chảy máu ra, sau tỉnh dậy, rồi
sinh ra vua, trên trán vẫn còn dấu vết lờ mờ như thấy trong giấc mơ, mãi đến
khi chết, vết ấy vẫn không mất”.
Điều
trớ trêu là người con cầu tự Tiên Đồng giáng thế này sau khi lên ngôi vua đã cực
lực bài bác Phật Giáo và Đạo Giáo để đưa Đại Việt vào khuôn khổ kinh điển Nho
Giáo độc tôn. Bản Kỷ Thực Lục ghi “Mùa thu, năm Quang Thuận thứ 2 (1461) ra
sắc chỉ cho các xứ, phủ, lộ rằng: chùa quán nào không có ngạch cũ thì không được
tự tiện làm mới”.
Đọc
chính sử về vua Lê Thánh Tôn, chúng ta còn gặp rất nhiều chuyện lạ, lúc vua còn
là hoàng tử; Tư Thành đã trải qua nhiều cuộc thanh toán về phe nhóm ở chốn thâm
cung, nhưng bất cứ biến cố nào thì Tư Thành cũng không hề hấn gì. Các phe
nào là Vương gia, Đại thần, Gian thần, Hoạn quan có thanh toán với nhau đẫm máu
ra sao thì kết cục phe thắng đều yêu mến Tư Thành.
Mới
năm 1441, Thần Phi Nguyễn Thị Anh đòi giết Ngọc Dao nhưng khi con của Thần Phi
là Hoàng Tử Bang Cơ lên ngôi mới hơn 2 tuổi, Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh buông rèm
coi chính sự, bà này giết đại thần, hoạn quan không hề nương tay nhưng năm 1445
bà lại cho gọi Tư Thành vào cung rồi phong làm Bình Nguyên Vương.
Bản
Kỷ Thực Lục ghi lúc Tư Thành học cùng với các vương khác, các quan dạy học thấy
Tư Thành là bậc khác thường vì thế Tư Thành “lại càng sống kín đáo, không lộ
vẻ anh minh ra ngoài chỉ vui với sách vở cổ kim…” Bản Kỷ Thực lục sau đó viết
tiếp “Tuyên Từ Thái hậu yêu vua như con mình đẻ ra, Nhân Tôn coi vua như người
em hiếm có…”
Đọc
văn bản này chỉ qua mấy câu ngắn, chúng ta nhận ngay được sự vô lý vì nếu mẹ
con Tuyên Từ Thái Hậu yêu thương Tư Thành đến thế thì tại sao Tư Thành lại phải
cố sống kín đáo, che đậy cái tốt của mình làm gì?
Tư
Thành còn qúa trẻ làm sao đã có thủ đoạn gian trá như vậy được, họa chăng ở chốn
cung đình đã có kẻ nào xảo quyệt thuộc loại cao tay như hoạn quan Lương Đăng có
biệt nhãn với cậu nhỏ Tư Thành rồi xúi bẩy, dạy dỗ cho Tư Thành sớm học được
thói nham hiểm với mưu đồ chờ cơ nối nghiệp chính thống.
Còn
nếu không phải như vậy thì sử quan đời trước đã ghi úp mở như thế với dụng ý
gì? Đối với thường dân mà ăn ở gian dối với các đại ân nhân thì bị coi là bất
nghĩa, còn hoàng tử Tư Thành là con thánh nên có man trá cũng chẳng sao! Mặt
khác, theo đạo vua tôi của thời quân chủ thì hoàng tử Tư Thành đã dối vua Nhân
Tôn, đây là trọng tội.
Nhân
Tôn làm vua được 17 năm thì bị người anh cả (cùng cha khác mẹ) là Nghi Dân cướp
ngôi vào năm 1459. Nghi Dân giết Nhân Tôn, giết Tuyên Từ Thái Hậu nhưng lại tức
khắc đổi tước phong cho Tư Thành là Gia Vương và xây phủ đệ ở bên phải nội điện
cho ở.
Nghi
Dân làm chuyện cướp ngôi ghê gớm như vậy nhưng trong lúc dầu sôi lửa bỏng mà vẫn
cố bỏ thì giờ để biệt đãi với hoàng đệ Tư Thành thì lại thêm một chuyện lạ nữa.
Hay là Nghi Dân thưởng công cho kẻ đã thông đồng làm nội gián cho mình?
Nghi
Dân làm vua được 8 tháng thì lại bị các đại thần xúm nhau lại giết hết bè đảng
phản nghịch. Các đại thần cầm đầu cuộc lật đổ Nghi Dân như Nguyễn Xí, Đinh Liệt,
Lê Lăng, Lê Niệm… sau khi dẹp xong loạn đảng rồi thì bàn việc tìm người thay thế
Nghi Dân vào ngày 6 tháng 6 năm Quang Thuận thứ nhất (1460).
Bản
Kỷ Thực Lục ghi về việc các đại thần bàn bạc với nhau rằng “Ngôi trời khó
khăn, thần trí rất trọng, nếu không phải là bậc đại đức, thì sao có thể kham nổi.
Nay Gia Vương thiên tư sáng suốt, hùng tài đại lược, hơn hẳn mọi người các
vương không ai so được, lòng người đều theo, đủ biết ý trời đã quyết. Ngay ngày
hôm ấy đem xe kiệu đến đón vua ở Gia Để (có sách chép là Tây Để). Quyết định
giáng Nghi Dân làm Lệ Đức Hầu”.
Phần
chính của Bản Kỷ Thực Lục chép như vậy ở quyển 12, nhưng ngay dưới đó lại có
ghi chú thêm rằng “xét: có sách nói là sau khi giết bọn phản nghịch là Trần
Lăng. Lê Lăng lấy lụa đưa chi Nghi Dân bắt phải tự tử. Giết Nghi Dân xong liền
đi đón Cung Vương Khắc Xương. Cung Vương cố tình từ chối, mới đón vua ở Tây Để
về lên ngôi. Sau vua nghe lời gièm. Cung Vương phải chết”.
Đọc
ghi chú này chúng ta thấy hoàn toàn khác hẳn với phần chính viết ở trên vì các
đại thần đi đón Cung Vương Khắc Xương trước nhưng ông này từ chối nên mới đi mời
Tư Thành chứ không có chuyện bàn bạc với nhau để ca tụng tài đức của Gia Vương
hơn hẳn các vương khác.
Ghi
chú này lại rất mù mờ chỉ viết ba chữ “có sách nói”, vậy sách này là
sách gì? Sao không viết rõ ra? Hay là sách Đại Việt Thông Giám của nhóm sử quan
Vũ Quỳnh. Căn cứ trên văn bản, chúng ta có thể nghĩ rằng ghi chú này không do
nhóm Vũ Quỳnh đưa vào Chính Sử; vì nếu ghi chú như vậy thì rất mâu thuẫn với lời
bàn do Vũ Quỳnh viết về triều Lê Thánh Tôn ở quyển 13 của Bản Kỷ Thực Lục. Lời
bàn viết rằng “Trước đây, khi vua còn làm Phiên Vương, vẫn tự giấu tài, đến
khi nước gặp đại biến, các quan lật đật đón lập lên. Khi vào nối đại thống, vua
biết bọn Đồn, Ban đã bị giết, nhưng Lạng Sơn Thân Vương (Nghi Dân) lại bị hại,
ngài bùi ngùi không vui, có lòng thương xót, trách là cốt nhục tương tàn để cho
người ngoài lợi dụng, anh em một nhà đều bị tai họa”.
Như
thế có thể các nhóm sử quan đời sau như Phạm Công Trứ , Lê Hy đã lấy sử liệu
khác ghi vào theo cách thức được gọi là chỉnh lý. Còn nếu thực sự vua Lê Thánh
Tôn nghe lời gièm mà bức tử anh ruột (cùng cha khác mẹ) là Cung Vương Khắc
Xương thì ông vua này là kẻ đại bất nhân và viêc “Ngài bùi ngùi không vui…” thì
chỉ là trò xảo quyệt. Luật Hồng Đức dựa theo Chu lệ (lệ của nhà Chu) có định ra
thập ác tức là 10 trọng tội; kẻ nào phạm một trong những tội này đều bị xử tử
hình. Giết anh em trong nhà nằm trong điều thứ 4 được gọi là Ác Nghịch.
Tổng
Tài Vũ Quỳnh viết lời bàn này vào khoảng năm 1511 tức là chỉ 14 năm sau khi vua
Lê Thánh Tôn mất. Một tiết lộ ghê gớm và tồi tệ nữa ở chốn thâm cung cũng được
ông Vũ Quỳnh đưa ra với đoạn viết “Tiếc rằng vua nhiều phi tần quá nên mắc bệnh
nặng, Trường Lạc Hoàng Hậu bị giam ở cung khác, đến khi vua ốm nặng mới được đến
hầu bệnh, bèn ngầm dấu thuốc độc trong tay mà sờ vào chỗ lở, bệnh vua do vậy mới
lại thêm nặng”.
Không
hiểu vị vua được các đại thần mệnh danh là “bậc đại đức” đã gieo rắc bệnh
hoạn hiểm nghèo cho bao nhiêu cung tần mỹ nữ?
Vua
Lê Thánh Tôn ở ngôi được 38 năm, ngày Nhâm Tý 30 tháng Giêng năm Hồng Đức thứ
28 (1497) vua băng ở điện Bảo Quang. Vua sinh được 14 hoàng tử và 20 hoàng nữ.
Thái Tử Tranh, con trưởng của vua do hoàng hậu Trường Lạc sinh ra đã nối ngôi đặt
miếu hiệu là Hiến Tôn. Sau khi an táng vua cha, nhà vua đã “thả vài trăm
cung nữ”.
Vua
Lê Hiến Tôn ở ngôi 7 năm, thọ 44 tuổi, tháng năm năm Cảnh Thống thứ 7 (1504), Bản
kỷ Thực Lục chép “Vua vì ham nữ sắc, bị bệnh nặng… ngày 24 vua băng ở diện Đồ
Trị”.
Từ
các chi tiết này, chúng ta thấy rõ hậu cung nhà Hậu Lê là hang ổ lây lan của
căn bệnh hoa liễu hiểm nghèo.
Xuyên
qua một số sử liệu trích dẫn ở trên, chúng ta thấy vua Lê Thánh Tôn đã đe dọa sử
quan rồi còn đòi xem cả các ghi chép đương thời thì làm sao những người soạn sử
còn có thể viết khách quan ngay thẳng được. Sử mà thêm bớt, “đổi trắng, thay
đen” tùy theo ý muốn của vua thì còn đâu là sử nữa! Điều này cũng không hợp
với lẽ chính danh của Nho Học.
Ngô Đình Vận
Santa
Ana, California 2005
No comments:
Post a Comment