MỘT TƯỢNG-ĐÀI CHO
NẠN-NHÂN CSVN
ĐẾN MỘT NGÀY CẦU NGUYỆN HẰNG NĂM
Nguyễn Ngọc Bích
Tối ngày 6 tháng 6 năm 2015 qua tin
của Chương Trình Văn Hóa Nhân Bản Lạc Việt , tôi dược biết một số đồng bào ở
Nam California đang vận động Hội Đồng Liên Tôn để có một ngày cầu nguyện hằng
năm cho các nạn nhân của Hồ Chí Minh và Cộng Sản Việt Nam mà theo ước tính của
quốc tế có trên 5 triệu người.
Thật là một sự trùng hợp đặc biệt vì
ở Washington, DC thứ Sáu này, 12/6, tại Tượng-đài Nạn-nhân Cộng-sản
("Victims of Communism Memorial") lại có lễ kỷ-niệm trên 100 triệu
nạn-nhân CS trên toàn-thế-giới. Đây là
lần thứ 9 tượng-đài này được dùng như là chỗ quy tụ đại diện của rất nhiều quốc
gia có mặt ở Hoa-kỳ mà đã từng kinh qua cái thảm-họa kinh khiếp là phong trào
Cộng-sản ở trên thế-giới bắt nguồn từ Cách mạng tháng Mười ở Nga.
(Để có một khái-niệm về sự tàn-hại
của CS, ta có thể lấy số người, cả lính lẫn dân-sự, chết trong Thế-chiến II --
72 triệu người -- và so với con số nạn-nhân của CS, ta sẽ thấy là các đảng CS
cộng lại đã tàn-hại gấp rưỡi lần một cuộc chiến-tranh nóng trên toàn-cầu, trong
đó có cả hai trái bom nguyên-tử.)
Cũng như mọi năm, cộng-đồng Việt-nam
sẽ có một số đại diện đến để tưởng-niệm các nạn-nhân của CSVN cùng chung với
những đại diện Đông-Âu, Đông-Á (như Trung-quốc, Đại-Hàn, Tây-tạng,
Duy-ngô-nhĩ--tức người Uighur ở Tân-cương, v.v.), Phi-châu, Nam-Mỹ. Đại diện cho Cộng-đồng VN vùng DC-MD-VA chắc
hẳn sẽ là ông Đoàn Hữu Định, chủ-tịch Cộng-đồng, nhưng đáng chú ý nhất sẽ là
phái-đoàn của các đồng-bào Huế năm nào cũng có vòng hoa đặt dưới chân tượng-đài
làm theo mẫu của Nữ-thần Tự Do ở Thiên-an-môn (Bắc-kinh, Trung-hoa) vào năm
1986.
Khi được tin tôi và Dược-sĩ Nguyễn
Mậu Trinh thế nào cũng có mặt hôm thứ Sáu tới đây, Chương Trình Văn-hóa
Nhân-bản Lạc Việt ở Cali, đã hỏi: "Anh nghĩ mình có thể làm một tượng-đài
dành cho các nạn-nhân CSVN được không nhỉ?"
Tôi hỏi lại: "Tại sao
không?"
"Captive Nations Week"
(1949)
Sở dĩ vậy là vì, như tôi đã kể lại
với Chương trình Văn Hóa Nhân Bản Lạc Việt, dưới thời Tổng-thống Eisenhower ở
Mỹ, vào năm 1949, các người Mỹ gốc Đông-Âu (mà một số nước đã rơi vào trong
quỹ-đạo của Cộng-sản Liên-Xô như Ba-lan, Tiệp-khắc, Hung-gia-lợi, Ru-ma-ni,
Albany, ba nước Baltic v.v.) đã tìm cách vận-động cho việc thành-lập Đài Âu-châu
Tự Do (Radio Free Europe) và việc công-nhận một ngày gọi là "Captive
Nations Week" ("Tuần lễ của các Quốc-gia bị cầm tù"). Việc vận-động cho "Captive Nations
Week" lúc đầu đã gặp sự chống đối mãnh-liệt của ông George Kennan, lúc bấy
giờ là đại-sứ của Mỹ ở Mạc-tư-khoa; ông cho rằng làm thế sẽ cản trở công việc
làm của ông bên cạnh Điện Cẩm-linh (Kremli), đẩy Stalin vào thế thù nghịch và
làm khó khăn những thương-thuyết đôi khi phải rất tế-nhị với đối-phương.
Nhưng rồi Quốc-hội Mỹ vẫn nghĩ là
nước Mỹ cần đề cao lý-tưởng tự do của nước này và chấp nhận qua một nghị-quyết
để cho các công-dân Mỹ gốc Đông-Âu có tuần lễ "Captive Nations Week"
của họ. Về sau, vì có nhiều quốc gia
khác nữa trên thế-giới rơi vào tay CS nên "Captive Nations Week" được
đánh dấu, không phải chỉ bởi những người Mỹ gốc Đông-Âu mà còn cả những người
tỵ nạn đến từ các quốc gia CS khác nữa.
Chính cá-nhân tôi đã dự một số những buổi lễ của "Captive Nations
Week" và cũng đã có lần nói chuyện tại đó.
Riêng về Việt Nam, dưới thời Đệ Nhất
Cộng Hòa trong thập niên 50 cũng đã có Hội Nạn Nhân Cộng Sản do ông Ngô Trong
Hiếu đảm trách với nhiều sinh hoạt đáng kể.
Liên-đoàn Tự do ("Freedom
Federation," 1980)
Miền Nam mất vào tay CS tháng Tư năm
1975. Sang Mỹ, tôi tham-gia ngay vào
trong những cuộc vận-động cho tự do, độc-lập (của các nước họ) của
"Captive Nations." Đến cuối
năm 1980, Phong trào Đoàn Kết Ba-lan ("Solidarnośc") bị đàn áp,
Tổng-liên-đoàn Lao-công Mỹ AFL-CIO muốn tỏ tình đoàn-kết liên-đới với
Solidarnośc nên kêu gọi người đi biểu-tình ủng-hộ Công-đoàn Đoàn Kết
Ba-lan. Hưởng-ứng thì phần lớn là người
Đông-Âu; vào phút chót AFL-CIO mới nhìn ra là nếu chỉ có Đông-Âu ủng-hộ cho
Ba-lan thì không đủ ý-nghĩa. Vào phút
chót, anh Chris Gersten của AFL-CIO mới nghĩ ra là nên mời các nạn-nhân CS
thuộc các quốc gia khác nữa. Anh hỏi
quanh và có người giới-thiệu anh với tôi.
Khi anh liên-lạc được với tôi, tôi liền hỏi lại: "Anh muốn chúng
tôi tham-gia hả? Chúng tôi có bao nhiêu
thời giờ để chuẩn-bị?" Anh bảo:
"48 tiếng!" Tôi la ầm lên và
quát lại: "Anh điên à? 48 tiếng là
hai ngày. Anh nghĩ liệu chúng tôi có thể
vận-động được bao nhiêu người trong hai ngày?" Chris xin lỗi: "Tôi biết là hấp tấp quá
nhưng thôi, anh cứ cố gắng giùm, được bao nhiêu hay bấy nhiêu."
Tôi liền quay ra gọi những người bạn
thân với tôi trong cộng-đồng VN ngày đó như Ngô Vương Toại, Phạm Dương Hiển
v.v. Tôi cũng kêu cả những bạn Miên Lào
của chúng ta ở trong vùng và khuyến khích họ mang thật nhiều cờ của quốc gia
mình. Đến hôm biểu tình, người mình
không đông (đã đành rồi) nhưng vì có mang theo nhiều cờ nên trông rất
khí-thế. Các nhà báo, nhà quay phim thấy
cờ lạ cũng chụp và cho đi trên truyền hình, trên mặt báo. Thế là người ta xôn xao hỏi nhau: "Nước
nào vậy? Nhóm nào vậy?" Đến khi phim của USIS đưa ra về vụ biểu tình
cũng xoáy một phần vào các cờ Việt-Miên-Lào, nhất là những lá cờ vàng ba sọc đỏ
tung bay phấp phới.
Thấy sự thành công của lần động-viên
đó, Chris Gersten liền quay ra mời một buổi họp để thành-lập "Freedom
Federation" ("Liên-đoàn Tự do").
Khác với nhóm "Captive Nations" trong đó sự hiện diện áp-đảo
là của các nước Đông-Âu, ngay từ đầu Freedom Federation đã có sự hiện diện của
một số nước Á-đông, chủ-yếu là Việt-Miên-Lào.
Trong buổi họp thành-lập Liên-đoàn, anh Phạm Dương Hiển đã có mặt cùng
với tôi.
Phải nói, buổi đầu tôi cũng khá thất
vọng. Nhìn quanh chỉ thấy có chúng tôi,
nhóm Việt-Miên-Lào, là còn trẻ. Hầu hết
những thành-viên kia đều đã ở tuổi 70-80, đầu tóc trắng xóa. Tôi, lúc bấy giờ mới hơn 30 một chút, tự
nghĩ: "Nếu phải đợi tới tuổi của mấy ông già này thì coi bộ cuộc chiến đấu
còn dài lắm." Mà lúc bấy giờ cũng
chưa ai nghĩ tới sẽ có ngày CS Đông-Âu, rồi Liên-Xô, sẽ sụp đổ.
Thành-lập Đài Á-châu Tự do (RFA, Radio
Free Asia )
Sau hơn hai năm tham-gia Liên-đoàn
Tự do, một hôm tôi than với Chris Gersten: "Này Chris, tao chỉ thấy
Liên-đoàn bàn chuyện Đông-Âu với Liên-Xô, chẳng có cuộc bàn bạc nào nói đến
chuyện của chúng tao cả." Chris hỏi
lại: "Thế các anh muốn gì?"
Tôi bảo: "Thì tỷ dụ, chúng tao muốn có đài phát thanh về VN, như
đài Âu-châu Tự do vậy." Chris nói:
"Thế anh viết cho Liên-đoàn một bản dự-án về chuyện đó được không?"
Thế là tháng 11-1983, vào cuối tuần
Lễ Tạ Ơn, tôi ngồi viết xuống giấy một tài-liệu sơ khởi về "Đài Á-châu Tự
do" ("Radio Free Asia").
Tôi chỉ biết đủ để nói về nhu-cầu có một đài như vậy nhưng tôi không có
khái-niệm gì về kỹ-thuật hay tài-chánh cần thiết cho một dự-án như Đài ACTD. Rất may, trong Liên-đoàn Tự do có Istvan
Gereban (một chuyên-viên người Hung-gia-lợi) và Linas Kojelis (một chuyên-viên
người Lithuania ),
hai người làm việc lâu năm ở Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA, Voice of America), họ
biết rất rõ những chi-tiết kỹ-thuật và tài-chánh cho một dự-án như tôi
đề-nghị. Sau khi nghiên cứu tài-liệu của
tôi, họ cung-cấp cho tất cả những chi-tiết tài-chánh và kỹ-thuật tôi cần để có
được một cái dự-án đứng đắn và khả thi.
Câu chuyện trong chi-tiết thì rất
dài nhưng chỉ cần nhắc là đến tháng 4 năm 1991, cuộc vận-động cho Đài ACTD đã
đạt tới mức Nghị-hội cùng với tổ-chức Mỹ Council for the Defense of Freedom
(của ông Jim Tysons) đã tổ-chức được một hội-nghị trên Quốc-hội Hoa-kỳ trong đó
chúng tôi đã mời được bà Dân-biểu Helen D. Bentley (CH-Maryland) và ông
Dân-biểu John Porter (CH-Illinois), hai người ủng-hộ việc thành-lập Đài
ACTD. Thế là có khoảng 1/10 Dân-biểu QH
ủng-hộ chuyện đó.
Từ đó, phía Việt-nam có thêm
Tổng-liên-hội Người Việt Tự do (gồm mấy tổ-chức lớn của người Việt tự do ở Úc,
Canada, Âu-châu và Mỹ) ra quyết-nghị ủng-hộ, rồi đến lượt Tổ-chức Phục Hưng và
Ủy-ban Đông-dương vận-động cho Đài ACTD (do G.S. Nguyễn Thanh Trang lập ra và
cầm đầu) vừa gây quỹ, vừa tổ-chức mấy chuyến lên vận-động trên Quốc-hội ở
Washington.
Thấy sự ủng-hộ mạnh của cộng-đồng
người Việt khắp nơi, một mặt Quốc-hội lập ra ủy-hội nghiên cứu (Congressional
Commission) và mặt khác, Tổng-thống Reagan cũng lập ra ủy-hội của TT
(Presidential Commission) nghiên cứu vấn-đề.
Riêng tôi đã điều trần ở cả hai ủy-hội để khẳng-định sự ủng-hộ rất rộng
rãi của người Việt khắp năm châu.
Và thế là đến đời Tổng-thống Bill
Clinton, năm 1995 ông cho viết vào ngân-sách cho năm sau đúng một dòng (tiếng
Anh gọi là "line item"): "$10 triệu để thành-lập Đài
ACTD." Năm sau đài được thành-lập,
tháng 9-1996 Đài bắt đầu phát thanh tiếng Quan-thoại vào Trung-hoa lục-địa và
đến tháng 2-1997, Đài bắt đầu phát thanh vào VN. "And the rest is history," như
người ta nói trong tiếng Mỹ.
Tượng-đài kỷ-niệm Nạn-nhân CS (2007)
Phải nói là ý-tưởng xây một
tượng-đài kỷ-niệm Nạn-nhân Cộng-sản không có gì là mới mẻ cả. Các "Captive Nations" ở Đông-Âu đã
chủ-trương việc này từ rất lâu, cũng đã xin được sự đồng-ý của Quốc-hội Mỹ
nhưng rồi chẳng đi tới đâu vì không ai chịu bỏ tiền ra lập tượng-đài.
Phải đợi đến sau khi Đông-Âu và
Liên-Xô sụp đổ (1989-1991), câu chuyện tượng-đài này mới được phục-hoạt. Theo một nguồn tin từ Hạ-viện Mỹ, việc chấp
thuận cho tượng-đài đã xảy ra như sau: "Năm 1993, xác-nhận về 'cái chết
của trên 100 triệu nạn-nhân trong một cuộc tàn-sát không tiền khoáng hậu của
đế-quốc Cộng-sản,' Quốc-hội [Mỹ] đã cho phép xây dựng Kỷ-niệm-đài Nạn-nhân CS ở
thủ-đô nước chúng ta, 'để cho không bao giờ nữa các quốc gia và dân-tộc trên
thế-giới còn cho phép một bạo-quyền tệ-hại như vậy khủng-bố thế-gian." (In 1993, recognizing "the deaths of
over 100,000,000 victims in an unprecedented imperial communist holocaust,''
Congress authorized the construction of the Victims of Communism Memorial in
our Nation's capital, "so that never again will nations and peoples allow
so evil a tyranny to terrorize the world.'')
(Phát biểu của Dân-biểu Mark Souder, CH-Indiana, trước khoáng-đại
Hạ-viện ngày 28/9/2004).
"Vào
tháng 7 [năm 2003], tôi và 26 đại-biểu Quốc-hội khác đã viết cho ông chủ-tịch
Ùy-hội Kỷ-niệm-đài ở Thủ-đô Quốc-gia (National Capital Memorial Commission),
khuyến khích Ủy-hội hãy đồng-ý về việc chọn địa-điểm cho kỷ-niệm-đài [tức ở
địa-điểm đầu đường New Jersey và Massachusetts, NW, Washington DC, như ta có
ngày hôm nay]. Khi ít lâu sau, Ủy-hội
họp để nghiên cứu đề nghị này, các công-dân đại diện cho nhóm người Mỹ gốc
Baltic, người Mỹ gốc Việt và người Mỹ gốc Ba-lan đã
lên tiếng ủng-hộ mạnh mẽ việc xây dựng kỷ-niệm-đài. Họ nhấn mạnh tầm quan-trọng của kỷ-niệm-đài
không chỉ đối với cộng-đồng của họ để tưởng nhớ những người đã khổ đau dưới sự
đàn áp của CS và còn đối với toàn-bộ nhân-dân Hoa-kỳ, nước đã chia xẻ cuộc
chiến-đấu chống Cộng với họ."
Như vậy,
tiếng nói của chúng ta rõ ràng là đã có trọng-lượng. Không những thế, đem hành-động gắn liền với
lời nói, cộng-đồng VN vùng Hoa-thịnh-đốn với sự đốc thúc của cụ Giáp Ngọc Phúc,
chủ-tịch Cộng-đồng hồi bấy giờ, và các anh chị em trẻ làm việc với chị Lữ Anh
Thư của nhóm Hậu-duệ Đà-lạt, cộng-đồng chúng ta đã gây quỹ được 35 nghìn đô-la
để cúng một món lớn đầu tiên vào quỹ xây dựng tượng-đài. Chính sau sự cúng dường này của cộng-đồng VN
mà các nhóm dân-tộc khác mới giật mình và hối hận, họ mới bắt đầu lo tổ-chức
liên-tiếp những buổi gây quỹ khác (như ở các tòa đại-sứ Ba-lan, Tiệp-khắc,
Hung-gia-lợi v.v.) và các sứ-quán khác như Đại-Hàn, Đài-loan mới bắt đầu cúng
những món tiền đáng kể để có thể khởi công xây cất tượng-đài. Rồi chính cộng-đồng VN lại có một buổi
đại-hội nhạc gây quỹ khác ở Nam Cali để góp vào quỹ xây dựng tượng-đài. Kết-quả là mấy năm sau, vào ngày 12/6/2007, Tổng-thổng
Bush cha đã có thể đến khai trương Tượng-đài Nạn-nhân Cộng-sản ở Washington,
đặt một mốc mới cho cuộc đấu tranh chống Cộng của toàn-thế-giới, trong đó có
người tỵ nạn VN chống Cộng là chúng ta!
Nguyễn
Ngọc Bích
June 10, 2015
No comments:
Post a Comment