MỘT NGÔI SAO TRÊN VÒM TRỜI VĂN HỌC,
NHÀ VĂN VÕ PHIẾN (1925-2015)
Nguyễn Ngọc Bích
Một nhà
văn lớn, một ngôi sao sáng trong vườn văn-học Việt-nam vừa mới ra đi. Hôm qua, trong lúc tôi đang lái xe trên đường
từ Maryland về thì anh Bùi Bảo Trúc kêu tôi từ Quận Cam nói: “Anh Bích ơi, anh
Võ Phiến chắc sắp ra đi rồi. Chị Võ Phiến
đã mời Thầy Viên Lý đến tụng kinh cho anh và gia-đình đoán là bất cứ giờ nào
anh ấy có thể sẽ quy tiên.” Quả như rằng,
đến 7 giờ tối thứ Hai, 28 tháng 9, 2015, nhà văn Võ Phiến, một cây bút hàng đầu
của Việt-nam tự do và của cộng-đồng hải-ngoại, đã trút hơi thở cuối cùng.
Không bất ngờ
Sự
ra đi của ông không phải là một chuyện bất ngờ.
Từ nhiều năm nay, ông đã phải ngừng viết vì chứng bệnh Alzheimer của tuổi
già, lúc nhớ lúc quên. Nhà văn Trùng
Dương, cách đây hơn 5 năm, đã đến thăm ông bà Võ Phiến, kể:
“Buổi
viếng thăm anh chị lần này đã để lại trong tôi một xúc động mãnh liệt… Đến nơi lúc 11 giờ đã thấy chị đứng sẵn ở cổng
bên mấy bụi hoa hồng chờ khi tôi lái xe vào khoảng sân trước nhà để xe (nay đã
biến thành kho chứa sách vì đã nhiều năm anh chị không lái xe). Bước vào nhà đã thấy anh áo quần tề chỉnh, cả
đội mũ nữa, chắc cho ấm đầu, với mái tóc trắng còn lưa thưa, đang chờ
khách. Tôi cảm động lắm, vì rõ ràng là
anh chi đang ngóng chờ khách phương xa.”
Kinh-nghiệm
này hoàn-toàn ăn khớp với hình ảnh vợ chồng tôi có mỗi khi có dịp sang Quận Cam
và đến thăm anh chị Võ Phiến. Vẫn một sự
hiếu khách và ân cần săn đón niềm nở dành cho một người chỉ đáng tuổi em mình,
vẫn một sự tò mò hỏi han về công việc văn-học của khách (khác hẳn nhiều người gặp
khách chỉ kể về mình). Tôi còn giữ được
không ít những lá thư anh viết cho tôi, khuyến khích tôi trên mỗi chặng đường
nghiên cứu của tôi. Như năm 1983, vợ chồng
tôi có viết chung một tiểu-phẩm mang tên Những
địa-tầng ngôn ngữ trong lịch-sử tiếng Việt được cụ Nguyễn Khắc Kham khen,
trong khi anh Võ Phiến thì vui hẳn:
“Bản
Tin Văn Hóa của Cung Tiến ở Minnesota liên tiếp mấy kỳ đăng loạt bài về ngữ học
của Anh, đọc thích ơi là thích. Không
dám khen các tác giả về kiến thức rộng…, tôi lấy làm thích thú đặc biệt là những
suy tìm, nghĩ ngợi, nhận xét rất thâm thúy và tinh tế… Tôi ngờ những bài này ở trong một cuốn sách,
cắt đăng từng kỳ báo chậm quá, người đọc phải chờ đợi lâu quá. Anh có dự tính nào về việc in cuốn này
chăng? Nếu có xin Anh báo tin cho tôi biết
với. Tôi chắc ở vùng Nam Cali này có nhiều
người muốn mua đấy.”
Rồi
anh kết-luận thật dí dỏm:
“Lâu
quá tôi ít thư từ cho ai, không có thư thăm Anh, nhưng mới nhận được Bản Tin
Văn Hóa mới hôm qua, khoái quá, không thể không ba hoa với Anh vài lời.” (Thư từ
Los đề ngày 20 tháng 9 năm 1983)
Lần
khác, anh nhận-định chung về tình-hình nghiên cứu ở hải-ngoại: “Tình hình biên
khảo về văn học VN do người Việt hải ngoại lâu nay khá bi quan. Từ sau cụ Hoàng Xuân Hãn, thường thường không
mấy ai phát giác ra cái gì mới mà chỉ tổng kết những thành quả khảo cứu của các
học giả trong nước. Vì vậy khi được đọc
những bài của Anh với những phát giác mới, những bài khảo cứu có tinh thần sáng
tạo, tôi thật khoái và thêm tin tưởng ở hoạt động văn hóa của bà con hải ngoại
chúng ta.” (Thư đề ngày 7 tháng 12, 1983)
Sang
đầu năm 1984, anh lại viết cho tôi về hai chữ Nôm nhức óc mà cho đến gần đây
chưa mấy ai đọc được cho chính-xác:
“Vụ
‘song viết’ tôi cũng nghĩ là anh thắng, các nhà nghiên cứu ngoài Bắc thua… Nhân dịp Đào Duy Anh bị ‘chôn’ sống [ở ngoài
Bắc], tôi có ý kiến là anh nên tìm cách phổ biến bài nghiên cứu của anh càng rộng
càng hay. Đề phòng một ngày kia, Hà nội
dùng ngay những phát giác của anh mà tỉnh bơ không nhắc tới tên anh. Lúc bấy giờ mình lấy những tờ báo đã đăng bài
của anh ra làm bằng chứng” (Thư đề ngày 25 tháng 1, 1984) mà tố-cáo sự gian lận
của họ.
Sở
dĩ tôi hơi dông dài nhắc về một vài kỷ-niệm của tôi (cái tôi đáng ghét) với anh
Võ Phiến như trên đây là để thấy là như một người đàn anh trong văn-đàn, anh
lúc nào cũng ưu ái theo dõi công việc của người khác mà anh coi như đồng-nghiệp
chứ không phải đòi ăn trên ngồi trốc như một ông tiên-chỉ trong làng văn. Đó là một đặc-điểm của cái mà nhà văn Mai Thảo
gọi là “cộng-hòa chữ nghĩa” (“la République des lettres” nói theo kiểu Pháp)
trong đó chỉ có anh em chứ không có ai chiếu trên, ai chiếu dưới—một điểm đặc-thù
của văn-học miền Nam và của hải-ngoại.
Một tổng-tác-phẩm đồ sộ
Sinh
năm 1925 ở Bình-định, ông có tên thật là Đoàn Thế Nhơn nhưng lấy tên vợ, Viễn
Phố, đảo lại thành bút-hiệu Võ Phiến - một ý-tưởng vừa ngộ nghĩnh vừa đáng
yêu. Bắt đầu viết từ rất sớm (1943 trên
Trung Bắc Tân Văn), tham-gia kháng-chiến xong bỏ về thành, cùng với một số bạn
ra tạp-chí văn-học Mùa Lúa Mới ở miền
Trung. Thời-gian trước năm 1975 vì làm
trong ngành kiểm duyệt của Bộ Thông tin nên có dịp theo dõi rất sát sinh-hoạt
văn-học của miền Nam. Nhờ những hiểu biết
này mà về cuối đời, ông đã viết được ra một cuốn văn-học-sử rất giá trị mang
tên Văn học Miền Nam: Tổng quan (Văn
Nghệ, 1987, đã được Võ Đình dịch sang
tiếng Anh và G.S. Nguyễn Xuân Thu xuất bản ở Úc) và dựa vào quyển này ông lại thu thập và tuyển chọn được một bộ hợp-tuyển
“Văn học miền Nam” gồm 7 quyển, trong đó có ba quyển giới-thiệu Truyện dài và
truyện ngắn, một quyển dành cho Ký, một quyển dành cho Kịch và Tùy bút, và một
quyển dành cho Thơ (tất cả đều do nhà xuất bản Văn Nghệ của ông Võ Thắng Tiết
in ra).
Bên
cạnh đó nhà xuất bản Văn Nghệ cũng in ra Toàn Tập Võ Phiến gồm Tùy bút (I và
II), Tạp Luận, Tiểu Luận, Truyện ngắn (I và II), Tiểu thuyết (I và II), Tạp
Bút. Tóm lại, một tổng-tác-phẩm rất đồ sộ. Sau này, nhà xuất bản Người Việt cũng lại cho
in một Tuyển tập Võ Phiến bìa dầy rất
trang trọng. Trong những tác-phẩm của
ông mà được người ta nhắc đến nhiều có: các tiểu-thuyết Mưa Đêm Cuối Năm (Giải văn chương toàn-quốc 1960), Giã từ (Bách Khoa, 1962), Một mình (Thời Mới, 1965), Đàn ông (Thời Mới, 1966), và các tập
truyện ngắn Chữ tình (Bình Minh,
1956), Người tù (Qui Nhơn, 1957), Mưa đêm cuối năm (Tự Do, 1958), Đêm xuân trăng sáng (Nguyễn Đình Vượng,
1961), Thương hoài ngàn năm (Bút
Nghiên, 1962), Ảo Ảnh (1967), Phù Thế (1969), chưa kể ông còn có một số
tác-phẩm dịch (Hăm bốn giờ trong đời một
người đàn bà dịch Stefan Zweig, Các
trào lưu lớn của tư tưởng hiện đại dịch André Maurois, Truyện hay các nước I và II, dịch với Nguyễn Minh Hoàng, và Ông chồng muôn thuở dịch
Dostoyevsky). Đặc-biệt mê Võ Phiến thì
có Võ Đình (có lần anh tả cho tôi cái óc quan-sát đặc-biệt tinh tế về một con
ruồi của Võ Phiến trong truyện “Một ngày để tùy nghi”), Thụy Khuê cũng đã viết
một thiên khảo cứu về Võ Phiến trên Hợp
Lưu số 103 (tháng 12/2008) và Nguyễn Hưng Quốc đã có nguyên một cuốn sách
dài viết về Võ Phiến (1996). Một giáo-sư người Mỹ, ông John C. Schafer,
cách đây gần 10 năm cũng đã có Võ Phiến
and the Sadness of Exile (“Võ Phiến và nỗi buồn lưu vong”), một cuốn
chuyên-đề do Northern Illinois University in ra (Monograph Series on Southeast
Asia, 2006).
Tỵ nạn
sang Mỹ, ông bắt đầu viết lại với Thư Gửi
Bạn (1976), rồi Lại Thư Gửi Bạn (1978), Ly Hương (1977, viết chung với Lê Tất
Điều) và truyện dài Nguyên Vẹn (1978, đã được James Banerian
dịch sang tiếng Anh). Tiểu-luận của ông
viết ở Mỹ đã được Nguyễn Ngọc Bích, Huỳnh Sanh Thông dịch sang tiếng Anh và
truyện ngắn của ông (do Võ Đình, Phan Phan, và Huỳnh Sanh Thông dịch) cũng đã
được đưa vào sách Landscape and Exile (Marguerite
Bouvard, ed., Boston: Rowan Tree Press, 1985).
Sang thập niên 1990, ông còn có thêm các tác-phẩm Truyện thật ngắn (1991), Quê (1992), Viết (1993), Đối Thoại (1993), Sống và
Viết (1996), và Thơ Thẩn (1997), tất cả cũng do nhà xuất
bản Văn Nghệ ở Cali in ra.
Không
chỉ viết, ông là một trong những cây bút cột trụ của báo Bách Khoa trước năm 1975, ông còn lập ra nhà xuất bản Thời Mới để
in sách của mình và của những tác-giả trẻ mà ông tin tưởng là có tương-lai nên
muốn giới-thiệu với công-chúng.
Lăng-xê các cây bút trẻ
Một
vài người ác-ý cho rằng Võ Phiến chỉ thích giúp và giới-thiệu các cây bút nữ ra
với công-chúng. Nhưng theo Hồ Trường An,
viết trong sách Cảo thơm lần giở (Tổ
Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ xb, 2015), nhà xuất bản Thời Mới của ông, ngoài
sách của chính Võ Phiến, còn in sách của Võ Hồng, Lê Tất Điều, Thế Uyên, Y Uyên,
Đỗ Tấn bên cạnh Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ…
Ngoài ra, tuy không in tác-phẩm của họ, ông Võ Phiến vẫn làm cho
công-chúng chú ý đến Hoàng Ngọc Tuấn, Trùng Dương…
Sang
Mỹ, Võ Phiến là một trong những người đầu tiên cầm bút trở lại mặc dù ông thừa
biết là nhà văn mà mất đi độc-chúng thì cũng như cá bị ném lên trên cạn. Mặc dầu vậy, ông vẫn viết và cho rằng chỉ cần
còn bạn tri kỷ là còn “thư gửi bạn” được.
Ông tin tưởng đủ ở văn-học Việt-nam hải-ngoại để cùng Nguyễn Mộng Giác lập
ra một trong những tạp-chí văn-học đầu tiên ở xứ người, tờ Văn Học Nghệ Thuật, sau này trở thành tờ Văn Học (do Nguyễn Mộng Giác chủ-trì một thời-gian dài).
Mô-tả
cách viết của Võ Phiến, Trùng Dương nói khá chính-xác:
“Mặc
thời đại vi tính với Internet, anh vẫn viết tay. Tôi còn nhớ có lần nghe anh nói anh phải cảm
ơn thấy da thịt của tay mình tiếp xúc với mặt giấy mới yên tâm sáng tác được,
hay một ý tưởng tương tự. Tôi hình dung
mặt tờ giấy đối với anh có lẽ cũng giống như cái ‘security blanket’ đối với nhiều
trẻ nhỏ. Nhưng từ vài năm nay anh không
viết nữa. Một đời gắn liền với chữ nghĩa
bỗng như hụt hẫng, thừa, chị nói với riêng tôi, nước mắt ứa ra. Anh không biết tại sao mình sống lâu như vậy. Tôi vỗ về cánh tay trái mới té gãy và còn
băng bột của chị. Chị rất sợ lỡ phải
‘đi’ trước anh, vì không biết ai sẽ chăm sóc anh được như chị chăm sóc
anh. Chị không muốn con cái phải bận tâm
nhiều về cha mẹ già. Hôm chị té gẫy tay,
mãi sau khi đi bác sĩ băng bó xong, đến tối mấy người con mới hay…
“Tôi
ra về, trong đầu lởn vởn ba câu thơ của anh làm năm 1986, mà chị đọc cho tôi
nghe trước đó. Tôi đã hỏi chị ‘sao chỉ
có ba câu, thay vì bốn?’ Chị đáp, ‘ai mà
biết, cô hỏi tác giả xem.’ Tôi đáp, nhìn
sang cửa phòng đã khép, ‘thôi để anh nghỉ.’
Tôi xin phép về, cũng để chị nghỉ nữa.
Tôi nghĩ với riêng mình, có những điều tốt hơn không cần giải
thích. Vả, tôi nghĩ là tôi hiểu vì sao
bài thơ chỉ có ba câu:
Ra
đi, tuổi chẳng năm mươi.
Năm
mươi tuổi nữa, nào nơi ta về?
Ngàn
năm mây trắng lê thê…”