Lac Viet Humanistic Culture
Friday, June 28, 2024
ĐANG MÙA HẠ TRÊN CAO Với Tiếng Hát LÊ UYÊN PHƯƠNG | Nhạc và Lời LÊ UYÊN ...
Wednesday, June 26, 2024
SÀI GÒN YÊU DẤU Với Tiếng Hát LÊ UYÊN PHƯƠNG | Nhạc LÊ UYÊN PHƯƠNG, Phổ Thơ HOÀNG NGỌC ẨN
Tuesday, June 25, 2024
Tôi không liệt dân oan là tù chính trị mặc dù họ là nạn nhân của chế độ ...
Trước khi có đảng phái đối lập ở Miến Điện đã có hơn mấy ngàn tù chính t...
Monday, June 24, 2024
Hướng Dẫn Tự Học Đàn Guitar Cổ Điển, Phần 28 | Guitarist Nguyễn Thái Cường
Đề nghị Quốc Hội của CSVN nên đổi cái tội danh hoạt động lật đổ chính qu...
Sunday, June 23, 2024
Muốn chấm dứt chế độ độc tài CS người VN không có cách nào khác là phải ...
Ông là một nhân cách lớn vẫn có những con người VN chân chính yêu thương...
Saturday, June 22, 2024
Kẻ nào sẵn sàng lừa bịp nhân dân kẻ đó chiếm phần thắng #shorts
Bà Sheng Thao bị FBI KHÁM NHÀ 20-6-2024 LÀ AI?
Friday, June 21, 2024
Chế độ nào cũng được, ông nào lên làm tổng thống cũng được miễn đừng phả...
Tiểu sử tóm lược về cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (1) #shorts
Thursday, June 20, 2024
Tiểu sử tóm lược về cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (2) #shorts
Tiểu sử tóm lược về cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (3) #shorts
Tiểu sử tóm lược về cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (4) #shorts
Wednesday, June 19, 2024
Tiểu sử tóm lược về cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (5) #shorts
Gọi tên Cha - Cha là Biển Đông. Mở rộng bao la nung đúc tấm lòng #shorts
Tuesday, June 18, 2024
Lễ Vinh Danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 2024
Ngày Vinh Danh Quân Lực VNCH 2024 do Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH Miền Nam California tổ chức vào chiều ngày Thứ Bảy 15 tháng 6 năm 2024 tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, 14180 All American Way, thuộc Thành phố Westminster, Miền Nam California, Hoa Kỳ.
Monday, June 17, 2024
PHAN KỲ NHƠN - 19/6/1965 Ngày Quân Lực VNCH
19/6/1965
Ngày Quân Lực VNCH
(Phát
biểu của ông Phan Kỳ Nhơn, Chủ tịch Liên ủy ban chống Cộng sản và Tay sai, Đồng
Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đền thờ Đức Thánh Trần nhân Ngày Lễ Vinh Danh Quân Lực
VNCH 2024 vào chiều ngày Thứ Bảy 15 tháng 6 năm 2024 tại Tượng Đài Chiến
Sĩ Việt Mỹ.)
Phần 1:
Sự
ra đời của ngày Quân Lực VNCH 19/6/1965
Ngày 5/5/1965, cụ Phan khắc Sửu làm Quốc Trưởng. Bắc Sĩ Phan huy Quát làm Thủ Tướng.
Một
chính phủ dân sự chính thức điều khiển Quốc Gia.Sau một thời gian các các tướng
lãnh của cuộc đảo chánh 1963 không đoàn kết được với nhau. Các cuộc chỉnh lý xẩy
ra liên tục. Hiến Chương Vũng Tàu v.v…
Quân
Đội quyết định trao đất nước cho một chính phủ dân sự.
Lợi
dụng tình hình đất nước rối ren. Việt Cộng
gia tăng đánh phá nhiều nơi trên lãnh thổ Miền Nam Việt Nam
Nhận
thức được tầm mức quan trọng của mức độ chiến tranh đang bước vào giai đoạn quyết
liệt. Chỉ có Quân Đội mới cứu vãn được tìmh thế
Quốc
Trưởng Phan khắc Sửu quyết định trao quyền
điều hành đất nước cho Quân Đội Ngày 11/6/1965. Phe Quân Đội do Trung Tướng
Nguyễn văn Thiệu làm Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia. Thiếu Tướng Nguyễn cao
Kỳ làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương.
Một
cuộc họp khẩn cấp… Hội Đồng Quân Nhân đồng nhất quyết định chọn ngày 19/6/1965
là ngày Quân Lực VNCH. Ngày này, Chính thức đánh dấu ngày Quân Đội lãnh trách
nhiệm điều khiển Quốc Gia…
Phần 2:
Ngày
19/6/1965 đi vào lịch sử.
Toàn
dân Việt Miền Nam thừa nhận ngày 19/6 /1965 là ngày của Quân Đội.
Sau này, hàng năm, đến ngày 19/6 đều có lễ duyệt binh kỷ niệm… Khơi dậy truyền thống yêu nước, lòng tự hào của Quân, Dân, Cán Chính Nước Việt Miền Nam Yêu dấu.
Ngày
này cũng còn là ngày tạo sự thống nhất ý chí cho toàn quân và, toàn dân.
Sự
ra đời của Quân Lực VNCH là một động lực mạnh mẽ cho dân tộc Việt Nam đứng lên
đối đầu với cuộc chiến xâm lăng của cộng sản Bắc Việt bằng cả ý chí rằng: “ Quyết tâm bảo vệ Miền
Nam bằng xương , máu của mình”…
Điển
hình là những trận đánh quyết liệt khiến đối phương thảm bại như: Tết Mậu Thân, An Lộc, Mùa hè đỏ lửa, và cổ thành Quảng Trị
v.v…
Quân
Lực VNCH đã can cường, hiên ngang, hy sinh xương, máu của mình để bảo vệ quê
hương.
Từ
thời điểm 19/6/1965 Quân Lực VNCH đã lớn mạnh được cả thế giới nhắc tới như một
quân đội lớn, mạnh nhất Đông Nam Á.
Một
quân đội can cường, bền bỉ, thiện chiến...
Tuyệt đối giữ vững tôn chỉ: “TỔ Quốc. Danh Dự. Trách Nhiệm.”
Hằng
năm, trước kia và, sau này, kể cả những năm, tháng lưu vong nơi xứ người. Trên
toàn thế giới… Người Việt Miền Nam không quên và, luôn tổ chức kỷ niệm ngày
19/6 Quân Lực VNCH để nhớ đến ơn bảo vệ quê hương của quân nhân Miền Nam Việt
Nam..
Phần 3:
Tinh
thần bất khuất. Bền bỉ đấu tranh sau 1975
Ở hải ngoại, từ những năm sau 1975, người lính VNCH vẫn luôn là những người tiên phong đấu tranh cho tự do, dân chủ của nước nhà.
Vẫn
hiên ngang, ngạo nghễ giữ vững màu cờ, sắc áo.
Đi
hàng đầu cùng đồng hương chống Việt Gian, Việt Cộng.
Vẫn
liên tục tổ chức những cuộc biểu tình đả đảo những phái đoàn Việt Cộng mỗi khi
xuất hiện. Những văn công, những chương trình văn nghệ tuyên truyền của cộng sản
Hà-Nội
Vô
hiệu hóa những nghị quyết gian manh của Việt Cộng nhằm mê hoặc đồng hương:
Nghị
Quyết 36 “ hòa hợp, hòa giải”… Quyết Định 1334/QĐ - Ban hành ngày 10/11/2023
“Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài, phục vụ, phát triển trong
tình huống mới”
Sắp
tới đây là: “xây dựng Trung Tâm Văn Hóa. ở nước ngoài”
(Việt
Cộng không có văn hóa… Sau 30/4/75. Việt Cộng đã đốt sách, vở của Miền Nam)
Kết luận:
Với
tinh thần của ngày 19/6/1965 Quân Lực VNCH. Người Lính vẫn không ngừng nghỉ. Kiên
cường, bền bỉ giữ vững làn ranh Quốc, Cộng trong suốt 49 năm qua ở Hải Ngoại.
Vẫn
tiếp tục kêu gọi Đồng bào ta ở nước ngoài, cũng như ở quốc nội quyết tâm giải
thể chế độ Cộng Sản.
Phần 4
Trao trách nhiệm cho hậu duệ
Thời gian, tuổi tác, sức khỏe… Đó là luật Trời!!
Mặc
dù tinh thần đấu tranh chống Cộng Sản vẫn kiên cường, bền bỉ song vì “lực bất
tòng tâm”… nên phải trông, chờ vàoThành phần hậu duệ.
Công
cuộc chống Cộng Sản. Giải thể chế độ Cộng Sản trên quê hương ta phải được liên
tục. Không một giây phút ngừng, nghỉ.
Cho
nên trách nhiệm này sẽ phải trao choThế hệ thứ hai, thứ ba… Những người có năng
lực tiếp tục sự nghiệp đấu tranh chống Cộng Sản của cha, chú trong tương lai.
Vì lẽ
đó, tôi kêu gọi quý chiến hữu và, đồng hương hãy nhiệt tình ủng hộ những ứng cử
viên người Việt trong mùa bầu cử sắp tới.
Chỉ
có thắng cử, tiếng nói của họ mới có hữu hiệu và, phương tiện thuận lợi để họ tiếp tục sự nghiệp đấu tranh của chúng ta đạt thành quả
Cuối
cùng, tôi:
Xin
kính chào đồng hương và, thân ái xiết chặt tay các chiến hữu.
Phan kỳ Nhơn
Thế hệ nối tiếp phải tiếp tục đấu tranh làm thế nào một ngày không xa gi...
Họ chiếm được miền Nam thì tất cả từ trên tới dưới vơ vét tài sản của mi...
Sunday, June 16, 2024
Bộ hành như sư Minh Tuệ có KHÓ không? Sự BUÔNG BỎ LỚN NHẤT là gì?
GỌI TÊN CHA Với Tiếng Hát YÊN LY | Thơ TRẠCH GẦM, Nhạc SONG NGỌC
Saturday, June 15, 2024
Biệt Đội Văn Nghệ QLVNCH | Văn Nghệ Kỷ Niệm Ngày Quân Lực & Vinh Danh Ng...
Friday, June 14, 2024
Tưởng Nhớ Bà ĐINH THỊ HẢI Cựu Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn VNCH
Chương Trình Văn Hóa Nhân Bản Lạc Việt ghi lại tâm sự của bà Đinh Thị Hải vào tháng 8 năm 2015 và chiều Thứ Bảy, ngày 5 tháng 1 năm 2019 tại Đền Thờ Đức Thánh Trần trên Đại Lộ Bolsa Trần Hưng Đạo, trong khu Hanoi Plaza, 9078 Bolsa Ave. Đại Lộ Trần Hưng Đạo, thuộc Thành phố Westminster, Miền Nam California, Hoa Kỳ.
Wednesday, June 12, 2024
Đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm không có vấn đề kỳ thị và đàn áp Phật g...
Tuesday, June 11, 2024
Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam quê hương đất nước sáng ngời #shorts
God Bless America #shorts
Sunday, June 9, 2024
Hồn thiêng sông núi luôn nhắc nhở chúng ta đừng bao giờ quên thảm cảnh của ngày 30 Tháng Tư 1975
Phu nhân một vị Tướng (1) | Đinh Yên Thảo
Phu nhân một vị Tướng (1)
Đinh Yên Thảo
Giông tố tuổi thơ
“Mấy chị em chúng tôi mỗi người chỉ có một bộ áo quần cũng đã sờn rách. Tôi may mắn có được 2 cái quần. Gọi là quần nhưng chỉ là những mảnh vụn vá chằng chịt lên nhau … Mùa Đông đến đem theo hơi lạnh, gió rét của miền rừng núi. Bốn mẹ con co ro trên cái phản gỗ, đắp một cái chiếu cũng đã cũ. Mẹ đầu bên này, tôi đầu bên kia, kéo qua kéo lại. Con ấm thì mẹ lạnh và ngược lại. Hai cậu em thì còn nhỏ ngủ vô tư…”. (trích Hồi Ức Tháng Ngày Qua – Nguyễn Tường Nhung)
Đó là dăm hồi ức về những tháng ngày đã sống thiếu thốn, cực khổ của mẹ và chị em bà Nguyễn Tường Nhung trong suốt 3 năm tản cư tại Xóm Đìa, một làng quê nghèo đâu đó gần Nhã Nam thuộc Yên Thế, nơi vị lãnh binh “Hùm Thiêng Yên Thế” Hoàng Hoa Thám từng đặt cứ địa chống Pháp ngoài Bắc. Bà đi mót lúa, giã gạo, mơ ước có được đôi dép cao su gánh gạo đi bán để chân không rát bỏng trên đường đá sỏi. Bà kể hiếm hoi lắm gia đình bà mới được chia bớt cho vài con cá nhỏ vớt đầm, có được vài quả trứng vịt hay miếng thịt rọi hàng ế ruồi bu đầy. Chúng là bữa ăn ngon theo bà suốt cả một đời, dù sau này có dự những quốc yến sang trọng.
Một tuổi thơ như vậy làm sao ai có thể quên?
Bà mở đầu tập hồi ức với tuỳ bút “Bố Tôi”, về nhà văn Thạch Lam, trước khi kể về những tháng ngày cơ cực bên trên. Tôi không nhớ rõ về thân thế của ông, nhờ đọc cuốn hồi ức và tìm hiểu lại, mới biết Thạch Lam mất vì bịnh lao khi còn rất trẻ, chỉ mới 32 tuổi, để lại cho người vợ 3 đứa con thơ cùng vài cuốn sách. Bà Nguyễn Tường Nhung là con cả, mới 6 tuổi lúc mồ côi cha và 2 cậu em, một người lên 3 và em út chỉ vừa chào đời được 3 ngày. Cả hai em trai bà, Nguyễn Tường Đằng và Nguyễn Tường Giang sau này đều ăn học thành tài. Người em út Nguyễn Tường Giang tốt nghiệp Y Khoa Sài Gòn, có làm thơ và viết văn từ trước năm 1975.
Gia đình các cụ nội ngoại của nhà văn Thạch Lam là dòng tộc Nguyễn Tường gốc Quảng Nam và Lê Quang gốc Huế, đều là những vị tổng quản và quan huyện được nhà vua bổ ra Bắc. Sinh năm 1910, Thạch Lam là người con thứ sáu trong gia đình. Cha mất sớm, khi ông lên 7 hay 8 tuổi, mẹ ông đã tảo tần nuôi 7 người con ăn học, vậy mà bà mẹ quê đã góp vào văn đàn Việt Nam những văn tài lừng lẫy trong thế kỷ 20 như Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam của nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Với cô bé 6 tuổi, những gì còn trong ký ức về thân phụ mình là một người đàn ông cao, da trắng như Tây, ăn vận chỉnh tề và là người tinh tế, nhẹ nhàng. Ông sống lặng lẽ thanh cảnh, nhưng có giao du với những văn nghệ sĩ đồng thời như Đinh Hùng, Thế Lữ, Huyền Kiêu, Thanh Tịnh … Tác giả kể rằng, có lần nhà thơ Đinh Hùng đến chơi, uống rượu say khướt, mẹ bà phải bôi vôi vào lòng bàn chân cho giải rượu. Hay khi tản cư xuống Nhã Nam, mẹ con bà có gặp cả thi sĩ Bàng Bá Lân và nhạc sĩ Phạm Duy.
Thạch Lam vướng bệnh lao rồi qua đời, có lẽ do làm việc quá độ vì phải đảm đương quá nhiều công việc khi các anh trai phải né tránh Pháp, từ viết văn, viết báo, trông nom nhà in đến biên tập tuần báo Phong Hóa, nắm chủ bút tờ Ngày Nay, những tờ báo đều bị Pháp đình bản về sau.
Thạch Lam không dấn thân vào con đường chính trị, bài xích Pháp mạnh mẽ như các anh trai. Dù vậy ngòi bút của ông vẫn mang khuynh hướng xã hội, có cảm thông chân thành với người nghèo khó, lam lũ. Có lẽ một phần vì cảnh nhà thanh bạch, thiếu thốn nên ông cảm thông hơn với họ. Vài chục năm sau, đọc lại tuyên ngôn văn chương của Thạch Lam, vẫn đáng để suy nghĩ. Ông viết, “Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Sau khi thân phụ mất, mẹ con bà được bà Nội rước về Cẩm Giàng, cách Hà Nội vài chục cây số, đùm bọc cho đến khi tản cư chạy giặc Tây. Bà Nội là người được bà ghi ơn là nếu không có cụ, có thể bà đã trở thành một nữ cán bộ Việt Minh và các em trai bà có thể đi bộ đội rồi vùi thây nơi chốn rừng thiêng nước độc nào đó.
Bởi bà và người dân Cẩm Giàng, trước lúc tản cư, bỗng bất ngờ một ngày, từng phải sống cùng với nhóm người “đeo súng trên vai, vừa đi vừa hô to những khẩu hiệu “Đả đảo Việt gian bán nước! Đả đảo! Đả đảo cường hào ác bá!” đi lùng bắt quan huyện và công chức, còn dân tình thì “nơm nớp sợ hãi, thì thầm bàn tán, không biết tốt xấu ra sao với nhóm người gọi là Việt Minh này và tự hỏi Việt Minh là ai vậy?” (trích Tháng Ngày Qua).
Bà kể là bà trở thành “thiếu nhi Việt Minh”, cũng học hát, học diễn kịch, được giao “công tác” đi thu gạo, đi vận động quyên góp trong “Tuần lễ vàng”, một chiến dịch mà Việt Minh phát động quyên góp vàng bạc quy mô trong dân chúng, ngay sau khi giành được chính quyền năm 1945.
Từ một gia đình hàng khá giả, có ruộng vườn khi được bà Nội cưu mang, chiến tranh đã tàn phá tất cả, bà phải sống những ngày rất cực khổ khi tản cư kể trên. Hồi cư, mẹ con bà không còn ở chung với bà Nội vì trang trại đã bị Việt Minh đốt theo chủ trương tiêu thổ kháng chiến, còn bà Nội thì về sống với người bác Cả. Mẹ con bà sống tạm với người cô ruột, chị của Thạch Lam, cũng là một gia đình nghèo và đông con mà cũng chẳng chứa được cả nhà bà lâu. Người thân bên cha cũng chẳng giúp đỡ được gì, đứa con gái mồ côi cha chớm tuổi dậy thì bị gởi đến người bà con xa để phụ việc cho một hiệu thuốc lào, sự thực là để có nơi ăn chốn ở và đỡ được một miệng cơm. Bà kể đó là những ngày rất cô đơn và buồn tủi vì xa mẹ, xa các em, buồn hơn cả thời gian tản cư nhọc nhằn.
Bà viết trong hồi ức rằng, “Hồi cư về thành nhưng nghèo vẫn hoàn nghèo”.
Chính cái nghèo đó đã đẩy tuổi thơ của bà sang một ngã rẽ của định mệnh. Bà bị tảo hôn năm chưa đầy 16 tuổi. Gia đình sắp đặt để bà lấy một người đàn ông hơn bà 13 tuổi, với lý do còn xoáy sâu vào đáy lòng bà, “cháu không lấy nó thì ai nuôi cháu”.
Dallas 5/2024
Đinh Yên Thảo
ĐYT
Phu nhân một vị Tướng (2) | Đinh Yên Thảo
Phu nhân một vị Tướng (2)
Đinh Yên Thảo
“Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao” (Nguyễn Du). Cuộc đời vô lường, có ai biết chắc những trang đời được mất của ngày mai?
Người chồng mất sớm, bà đi thêm bước nữa. Người thiếu phụ Bắc di cư còn son trẻ được vị Trung Úy Dù tác chiến xứ Bến Tre muốn bảo bọc, rồi họ lấy nhau khi ông được thăng cấp Đại Úy. Bà đâu ngờ ông sẽ trở thành một vị tướng cao cấp trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Trong trang mở đầu cuốn hồi ký Tháng Ngày Qua của bà Nguyễn Tường Nhung, ở giữa hai hàng chữ, “Kính dâng hương hồn Bà Nội và Bố Mẹ” cùng “Để thương mến tặng các con, cháu và chắt, nội ngoại” là hàng chữ đầy trìu mến dành cho cố Trung tướng Ngô Quang Trưởng rằng, “Để tưởng nhớ đến Anh, một đời bên nhau”.
Đọc hồi ký, tôi cảm nhận được mối tình của ông bà rất đẹp, chan chứa yêu thương và nghĩa tình của một đời bên nhau. Có khắc khoải, mất mát trong thời chiến, nổi trôi theo vận nước rồi ly lạc nơi xứ người. Nhưng những thăng trầm, nước mắt chẳng lấy mất sự lãng mạn, mặn nồng họ dành cho nhau, bù đắp tuổi thơ giông tố của bà.
Tôi xúc động lẫn ngạc nhiên đến bất ngờ khi đọc được thủ bút một vị tư lệnh chiến trường hiên ngang, cứng rắn của một thời vào sanh ra tử, vẻ ngoài khắc khổ và nghiêm nghị, lại dịu dàng viết cho vợ những lời ngọt ngào đến thế này.
“Em yêu! Đây là những cánh hoa sau cùng còn lại trong vườn tình yêu của chúng mình. Anh hái tặng em yêu để quên những giờ nhọc nhằn trong cuộc sống mà cũng để chứng tỏ một tình thương đậm đà nhất trên trần gian này mà anh đã dành cho em yêu” (Ngô Quang Trưởng).
Vị tư lệnh vùng
Là sĩ quan tác chiến can đảm và có tài, cựu Trung tướng Ngô Quang Trưởng được thăng cấp khá nhanh trong cuộc đời binh ngũ của ông. Tốt nghiệp tú tài Pháp, ông nhập ngũ năm 1953. Năm 1954, ông mãn khóa 4 Cương Quyết tại Trung tâm huấn luyện Sĩ Quan Thủ Đức. Về Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù với cấp bậc Thiếu Úy thì đến năm 1966, ông đã được thăng cấp Đại Tá Tư lệnh Phó Sư đoàn Nhảy dù rồi Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ Binh và đến năm 1971, được thăng cấp Trung tướng tại nhiệm.
Tham gia vào trung tâm quân sử Hoa Kỳ sau khi tị nạn tại Mỹ, trong cuốn sách về mùa Hè đỏ lửa 1972 vào năm 1977, cựu Trung tướng Ngô Quang Trưởng viết về những người lính VNCH rằng, “Người lính miền Nam Việt Nam bình thường, lớn lên trong chiến tranh, không chỉ gan dạ và cống hiến cho chính nghĩa mà anh ta đã chiến đấu mà còn luôn kiêu hãnh về binh nghiệp của mình và tràn ngập lòng yêu thương gia đình, đồng đội và người dân” (The Easter Offensive of 1972).
Cũng có thể xem những lời nói trên dành cho chính ông một cách khiêm cung. Bởi trong cuốn sách “Cuộc chiến 25 năm” (The 25-Year War), Đại tướng Bruce Palmer, là Tư Lệnh Lực Lượng Dã Chiến trong chiến tranh Việt Nam và từng là quyền Tham mưu trưởng Quân đội Hoa Kỳ, đã nhận xét về tướng Trưởng rằng, “ông là một sĩ quan chỉ huy tác chiến cang cường, dày dặn kinh nghiệm và có lẽ là sĩ quan chỉ huy chiến trường giỏi nhất tại miền Nam Việt Nam”.
Chưa tròn một năm sau khi mãn khóa huấn luyện, ông đã bị thương trong trận đánh với quân Bình Xuyên tại Sài Gòn. Những chiến công liên tục của ông đã giúp cho ông thăng cấp khá nhanh như nói trên. Từ năm 1970-1972, ông là Tư Lệnh Quân Đoàn 4 và được điều ra Huế làm Tư Lệnh Quân Đoàn 1 nhằm tái chiếm cổ thành Quảng Trị trong mùa Hè đỏ lửa 1972 cho đến năm 1975.
Bà Nguyễn Tường Nhung kể rằng, năm 1966 khi bay ra phi trường Phú Bài, lúc này chỉ trên dưới 30 tuổi, bà chưa quen hai chữ “phu nhân” khi có người ra đón và chào nên còn ngường ngượng. Biết ông khi còn là một Trung Úy Dù, cái danh vị “phu nhân” của bà được đánh đổi bằng những lo âu hồi hộp mỗi khi ông hành quân, phải đưa con cái theo ông ra những vùng chiến thuật ông được giao nhiệm vụ.
Những ngày mới lấy nhau, ông hành quân, đánh trận vài ba tuần mới về, ở nhà bà hay những người vợ lính chỉ biết cầu nguyện cho chồng được bình yên trở về. Bà viết trong hồi ký những ngày ông còn là Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù rằng, “Anh tham gia trận chiến nhiều hơn làm việc ở văn phòng. Mỗi lần đi hai tới ba tuần mới trở lại đơn vị… Người lính trận rất ít khi được ở gần gia đình vợ con, mà người vợ luôn sống trong sự lo âu hồi hộp. Mỗi lần chồng ra đi lại lo sợ không biết có trở về hay gục ngã ngoài trận tuyến…” (Tháng Ngày Qua). Có lẽ đó là tâm trạng chung của những người vợ lính.
Nhưng sự nguy hiểm đó không chỉ đến với người lính trận mà cả vợ con họ, những người theo chồng là cấp chỉ huy được điều đến nơi nhậm sở. Năm 1968, bà là người đã sống qua cái Tết Mậu Thân khốc liệt tại Huế. Lúc này ông đã lên tướng và là Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ Binh. Khi Việt cộng bắt đầu tấn công Huế, bà kể rằng ông còn ở trong trại và tư dinh của ông bà bị bao vây, may mắn trốn thoát được tới An Cựu.
Bà theo ông ra Huế rồi về Cần Thơ, rồi lại ngược ra Huế, Huế trở thành vùng đất nhiều kỷ niệm và gắn bó với bà. Bà kể rằng Huế là nơi con út của bà chào đời, đi sinh bằng trực thăng và được bác sĩ quân y Mỹ đỡ đẻ ngay trong lều bạt nhà binh của trại đóng quân của Mỹ. Tướng Trưởng đã đặt tên con là Ngô Trị-Thiên nhằm ghi dấu thời gian trấn giữ hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên.
Dallas 5/2024
Đinh Yên Thảo
ĐYT
Phu nhân một vị Tướng (3) | Đinh Yên Thảo
Phu nhân một vị Tướng (3)
Đinh Yên Thảo
Không chỉ là tướng tài, Trung tướng
Ngô Quang Trưởng còn được đánh giá là vị sĩ quan liêm chính, thanh bạch. Hồi ức
của bà Nguyễn Tường Nhung đã cho thấy điều này qua từng giai đoạn cuộc đời. Lấy
nhau vài năm, khi ông được điều về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đóng ở Sài Gòn, hai vợ chồng
bà dọn về ở chung với mẹ chồng, phần thì ông là con út trong nhà và phần khác
là đỡ phải thuê nhà, hành lý chỉ chất vừa chiếc xe Jeep. Bạn rủ đi học cơm Tây,
làm bánh mà ngần ngại vì lương ông chỉ có 35 ngàn mỗi tháng trong khi tiền theo
học một khóa đến 15 ngàn, nhờ mẹ chồng cho tiền bà mới học được.
Khi được điều ra Huế lần đầu làm Tư Lệnh Sư Đoàn mà nhà ông bà không có tủ lạnh, người bạn thân từ Sài Gòn ra chơi thấy không có mới gởi tặng cái tủ lạnh. Bà kể mời khách đến nhà thì tự bà xuống bếp làm món Bắc, cơm Tây đãi khách, bình dị, thân thiện, các phu nhân thuộc cấp bảo bà không như vài “phu nhân” cấp tướng khác. Ở đoạn khác, khi kể chuyện ăn uống chi tiêu trong gia đình, số tiền đưa cho người đầu bếp của gia đình lo bữa ăn cũng được cân nhắc để chi tiêu vừa đủ.
Ở đoạn khác, bà còn kể về những ngày ông làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV, bà tiếp một phái đoàn từ Sài Gòn xuống đi dự lễ Bà Chúa Xứ, ông tỏ vẻ không vui khi nghe bà kể có đoàn xe quân cảnh hú còi mở đường. Hoặc ông bị những người thân hay bà con trách móc vì có người thân làm lớn nhưng lại không nhờ vả gì được.
Chính một người thân yêu của bà đã tử trận khi còn rất trẻ khiến bà cũng thoáng thầm trách chồng đã không giúp được gì khi đã lên tướng. Bởi ông thường bảo với bà rằng, ai cũng có mẹ cha, có thân nhân, cũng đau xót như nhau, nếu ai cũng lo cho con cháu về hậu cứ trốn tránh trận mạc thì còn ai chiến đấu, hy sinh cho quốc gia.
Những ngày cuối cùng của cuộc chiến, từ nhã ý của bà Theresa Tull, Phó Tổng Lãnh Sự Mỹ tại Đà Nẵng giúp mang các con ông bà thoát khỏi Việt Nam về Mỹ theo bà, các con bà được theo bà Tull sang Mỹ còn bà ở lại, đợi tin chồng. Rồi bà cũng được sắp xếp di tản sang đảo Guam trong những ngày cận khi Sài Gòn thất thủ, trong khi vẫn bặt tăm tin tức của ông.
Theo hồi ký, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ là người kể công với bà tại đảo Guam là đã đưa ông ra Đệ Thất Hạm Đội khi tướng Ngô Quang Trưởng dự định bay xuống Vùng IV gặp Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Vùng để cùng bàn việc giữ lại Vùng IV chiến thuật. Tướng Nguyễn Khoa Nam tự sát, xem như Vùng IV không còn người chỉ huy, ông đành di tản cùng tướng Nguyễn Cao Kỳ (tự lái trực thăng) ra USS Midway.
Ông bà ra đi tay trắng mang theo nỗi ngậm ngùi của một bại tướng không giữ được thành, từng đắn đo với ý định tự vẫn trên bãi biển Đà Nẵng trước khi Đà Nẵng thất thủ.
Đó là lý do những tháng năm đầu tiên trên xứ người, gia đình Tướng Ngô Quang Trưởng đã sống khá vất vả và ngoài vài năm viết lại các kinh nghiệm chiến trường cho Cục Quân Sử của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ông đã sống rất lặng lẽ đến cuối đời.
Lưu vong và trở về Đất Mẹ
Từ đảo Guam, gia đình cựu Trung tướng Ngô Quang Trưởng được đưa sang Mỹ như những người di tản khác. Đến trại Fort Chaffee, sau đôi tháng, gia đình ông được Trung tướng John Cushman, Chỉ huy trưởng trường huấn luyện sĩ quan tham mưu Fort Leavenworth tại Kansas, từng là cố vấn cho tướng Trưởng tại Việt Nam, bảo trợ về nhà.
Trước khi bắt đầu cuộc sống của gia đình tướng Trưởng trên xứ người, hãy bắt đầu bằng câu chuyện khá thú vị về đời sống các vị tướng Mỹ đương nhiệm.
Theo bà Nguyễn Tường Nhung kể lại, dù được ông bà tướng Cushman đối xử tử tế và thân tình, nhưng các bữa ăn thường khá đạm bạc như bất cứ gia đình bình dân nào, chỉ cereal với sữa buổi sáng, trưa ăn hot dog hay pizza và tối ăn dăm món ăn đơn giản, có thứ bà chưa quen nên nhịn đói và khá tủi thân. Đến khi Đại tướng Richard Stilwell, cấp phó của tướng Westmoreland trong chiến tranh Việt Nam ghé thăm vì cũng quen biết ông bà bên Việt Nam thì ông bà Trung tướng Cushman cũng dọn dĩa cà-ri gà với dĩa salad nhỏ cùng bánh mì sandwich, bà Nhung mới hiểu đời sống các vị tướng Mỹ thanh bạch và đơn giản như vậy.
Chính vì vậy mà các vị tướng cũng không giao du nhiều với thế giới dân sự để có thể tìm việc thích hợp hay gởi gắm tướng Trưởng. Cuối cùng tướng Cushman cũng tìm được việc cho cha con tướng Trưởng: tới nông trại học và làm nghề nông. Từ một Trung tướng tư lệnh điều binh khiển tướng cả vạn binh sĩ, tướng Trưởng ngày ngày ra ruộng làm việc và tối về nhà lấm lem, mỏi mệt. Liệu có ai có thể nghĩ mình đã vất vả và kém may mắn hơn thế trong những ngày đầu tiên trên xứ người?
Dallas 5/2024
Đinh Yên Thảo
ĐYT
Phu nhân một vị Tướng (4) | Đinh Yên Thảo
Đinh Yên Thảo
Bà Nhung viết riêng cả một tùy bút với tựa đề “Cái ấm đun nước bằng điện” để kể về những tháng ngày đầu tiên như trên tại Mỹ. Lý do cái ấm điện còn trong ký ức của bà gần nửa thế kỷ là, nhờ vợ của một đại tá Mỹ là người Việt Nam cho cái ấm nước điện tí xíu và chưa tân kỳ như hiện nay, mỗi lần chỉ đủ nấu một gói mì, mà cả nhà bà được bữa ăn “Việt” ngon và nhớ suốt đời.
May mắn cho ông bà là sau một thời gian, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đã mời ông tham gia viết về kinh nghiệm của quân đội VNCH cho trung tâm quân sử tại Virginia. Đây cũng là tiểu bang mà tướng Trưởng đã sống cho đến cuối đời và bà Nguyễn Tường Nhung hiện vẫn đang an hưởng tuổi già cùng con gái và các cháu tại đây.
Đến Mỹ tay trắng nên khi gia đình tướng Trưởng dọn sang Virginia nhận việc, các tướng tá Mỹ quen biết đã gom góp tặng cho ông bà được năm ngàn đô để làm chi phí bước đầu.
Về Virginia mướn chung cư, ông đi làm với mức lương một ngàn mỗi tháng, tức khoảng gần sáu ngàn đô la theo thời giá hiện nay và mỗi tối vào đại học cộng đồng để học thêm. Còn bà đi học tóc theo những người quen đã sang Virginia trước gợi ý, vì trong số đó cũng có vợ của các cấp tướng, tá VNCH cùng đi học. Học đủ hai ngàn giờ, bà Nhung trở thành một thợ cắt tóc với mức bao lương $75 một tuần.
Làm vài năm có đủ kinh nghiệm, bà nghe lời khuyên vài người bạn và gom góp vay mượn, sang một tiệm tóc nho nhỏ có hai thợ. Làm mấy năm vẫn không khá lại bận rộn suốt tuần, bà sang tiệm rồi lại đi làm thợ cho người khác. Cũng gặp khách khó tính hay có chuyện đụng chạm, thợ tranh giành khách. Tưởng tượng phu nhân một vị tướng cấp cao một thời và xuất thân từ một gia thế tiếng tăm, từng được Tổng thống Park Chung Hee của Nam Hàn thết đãi quốc yến khi bà theo tướng Trưởng dẫn đầu phái đoàn tướng tá VNCH công du sang Hán Thành vào năm 1974, rồi phải trải qua cuộc đổi đời dâu bể, buộc phải mưu sinh như bất cứ người tị nạn nào. Những vị tướng tá tác chiến làm gì có và mang theo cả va-ly tiền vàng như dăm người nghĩ.
Về phần tướng Trưởng cũng chẳng khá hơn. Việc làm ở trung tâm quân sử Hoa Kỳ cũng không kéo dài, viết xong kinh nghiệm chiến trường là hết việc. Vậy là tướng Trưởng phải tìm việc làm mới. Kiếm việc thì trung tâm việc làm giới thiệu làm công việc đếm xe tại ngã ba đường. Cũng chỉ được thời gian ngắn. Rồi qua lời giới thiệu của một vị tướng Mỹ khác, ông đi làm vườn, chăm sóc, cắt tỉa cây cảnh. Nhưng rốt lại chủ vườn bảo ông cũng không thích hợp với công việc vì phải cần khuân vác nặng nề.
Cuối cùng ông đi học nghề, học về điện toán ngắn hạn được trả lương qua chương trình giúp đỡ cho người tị nạn. Học xong, ông tìm được việc làm với hãng đường sắt chính phủ trong Washington DC. Ngày ngày ông đón xe bus đi làm, làm một công chức bình thường cho đến tuổi nghỉ hưu.
Chắc những đồng nghiệp người Mỹ của ông không biết rằng người nhân viên Á Đông nhỏ con này từng là một vị tư lệnh lừng lẫy, là tác giả 3 cuốn sách về chiến tranh được Bộ Quốc Phòng lưu trữ và hiện có bán trên Amazon là “The Easter Offensive of 1972 (1983), “The Territorial Forces (1984) và “RVNAF and US Operational Cooperation and Coordination” (1984) về trận chiến tái chiếm cổ thành Quảng Trị năm 1972, về các lực lượng quân sự hay việc phối hợp tác chiến giữa quân đội VNCH và lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
Về hưu, con cái đã lớn, ăn học xong, ông bà bắt đầu thảnh thơi hơn, có dịp cùng nhau đi du lịch đó đây như đời sống người hưu trí bình thường khác. Bà sang Pháp, Anh rồi vài nước Châu Âu. Bà kể khi sang Anh, ông bà có gặp cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, lúc Tổng thống Thiệu còn sống tại London, được ông mời và chở ra phố Tàu ăn tối.
Nhưng. Chữ “nhưng” bất toàn và vô lường có thể đến với bất cứ ai và lúc nào.
Tướng Trưởng bị chẩn đoán ung thư phổi. Bác sĩ bảo bệnh đã ở giai đoạn 3 và ông chỉ còn 6 tháng cuối cùng. Ông bình thản đón nhận hung tin và từ chối chữa trị. Vậy mà sự chăm sóc và yêu thương của bà Nguyễn Tường Nhung cùng người thân gia đình đã giúp ông sống thêm được 2 năm, trước khi qua đời vào đầu năm 2007 ở tuổi 77.
Ông để lại di huấn cho các con không báo tin và không làm tang lễ sau khi mất. Dù sau đó các đồng đội xưa và gia đình có tổ chức tang lễ cho ông vì không thể để ông ra đi quá lặng lẽ, như ông đã chọn suốt những năm tháng trên xứ người. “Bại binh chi tướng bất khả ngôn dũng”, bại tướng không thể nói mình là dũng. Có lẽ đó là lý do cho chọn lựa đầy tự trọng của ông.
Tro cốt của ông mang về rải trên đèo Hải Vân, vùng đất mà biết bao người lính, kể cả những người lính Mỹ, những đồng đội của ông đã ngã xuống trong cuộc chiến tương tàn mà một thời ông đã sống và chiến đấu cho lý tưởng của mình. Và mang theo nỗi lòng, có thể cả sự dằn vặt đã không bảo vệ được quê hương. Nhưng có là tướng, cuối cùng thì ông cũng chỉ là một quân nhân đã cống hiến cho quốc gia bằng danh dự và trách nhiệm, đâu có quyền quyết định về một cuộc chiến đã có sự dàn xếp chung cuộc.
Gấp lại cuốn hồi ức “Tháng Ngày Qua” của bà Nguyễn Tường Nhung mà tôi đã giở tìm đọc lại dăm trang không ít lần, mỗi đoạn mang cho tôi những suy nghĩ và cảm xúc khác nhau. Cuộc đời mỗi người ai chẳng có những thăng trầm, thách đố nhưng sự thay đổi quá cách biệt và quá nghiệt ngã ở một số người, như gia đình cựu Trung tướng Ngô Quang Trưởng kham được và đủ nghị lực vượt lên số phận cũng giúp tôi chiêm nghiệm hơn về đời sống.
Tôi vẫn thích đọc những đoạn bà kể về hoa, về tường vi, bằng lăng tím hay những mùa sim tím miền Trung, về những mùa ve sầu gọi tình trên xứ người, những ngày sinh nhật hay mùa lễ Tạ Ơn đáng nhớ của bà, trong đó ghi lại kỷ niệm lúc thiếu thời hay với ông. Tôi nghĩ lòng phải thật bình yên sau những đổi thay đầy khắc nghiệt đó mới cảm nhận và hồi tưởng lại những điều nho nhỏ hiện hữu giữa thiên nhiên đất trời như vậy. Có lẽ vậy mà phần viết cuối cùng của bà là “Lòng chợt bình yên”, viết về những tháng ngày bình yên hiện nay.
Còn cựu Trung tướng Ngô Quang Trưởng, tro cốt ông được quy về cố quận và rải xuống biển từ một con dốc nào đó trên đỉnh đèo Hải Vân chập chùng mây nước. Người con kiêu hùng của quê hương cuối cùng đã về với đất Mẹ. Về để nghe tiếng gió lộng giữa đèo cao hay bềnh bồng trong tiếng sóng biển vỗ bờ.
“Mờ trong bóng chiều, một đoàn quân thấp thoáng, núi cây rừng…”. Tiếng gió rừng lao xao những tàn lá. Chiều đã buông. Một cánh chim xoải cánh bay vào màn đêm. Không còn để lại vệt gì.
Dallas 5/2024
Đinh Yên Thảo
ĐYT
Saturday, June 8, 2024
Ngày nay cuộc chiến đã đi qua nhưng lớp bụi thời gian không thể phủ mờ #...
Friday, June 7, 2024
Cụ Phạm Hồng Phúc - Nhân chứng sống nói về 70 NĂM QUỐC NHỤC CHIA ĐÔI ĐẤT...
Nhân chứng sống nói về 70 NĂM QUỐC NHỤC CHIA ĐÔI ĐẤT NƯỚC
Giáo sư Dương Đại Hải mời đồng hương tham dự Ngày Lễ Kỷ Niệm 70 Năm Quốc...
Phát Biểu của DEREK TRẦN Ứng Cử Viên Quốc Hội Địa Hạt 45
Thursday, June 6, 2024
Tấm gương chiến đấu và sự hy sinh của họ là tấm lòng son gởi lại cho dân...
Wednesday, June 5, 2024
Các anh là những người vĩ đại nhờ hồn thiêng sông núi tạo nên VN anh hùn...
Đứng lên gương cao ngọn cờ vàng viết thành khúc quân hành bất diệt #shorts
Qúy vị biểu tượng của sức mạnh, của ý chí chiến đấu bất khuất, kiên cườn...
Tuesday, June 4, 2024
Tiền Bạc Bạc Tiền – Hồ Biểu Chánh, Phần 2 | Diễn Đọc: Tạ Phong Tần
Phần diễn đọc của nhà báo Tạ Phong Tần được thực hiện vào chiều ngày 3 tháng 6 năm 2024 tại một địa điểm thuộc Thành phố Anaheim, miền Nam California, Hoa Kỳ.
Monday, June 3, 2024
Tiền Bạc Bạc Tiền – Hồ Biểu Chánh, Phần 1 | Diễn Đọc: Tạ Phong Tần
Phần diễn đọc của nhà báo Tạ Phong Tần được thực hiện vào chiều ngày 3 tháng 6 năm 2024 tại một địa điểm thuộc Thành phố Anaheim, miền Nam California, Hoa Kỳ.